Thành tựu nổi bật về phát triển kinh tế - xã hội và nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện đến năm 2020

27/06/2018 - 07:39

Chủ tịch UBND tỉnh Cao Văn Trọng (bìa phải) tham quan các gian hàng sản phẩm đặc sản Thạnh Phú. Ảnh: C.Trúc

Chủ tịch UBND tỉnh Cao Văn Trọng (bìa phải) tham quan các gian hàng sản phẩm đặc sản Thạnh Phú. Ảnh: C.Trúc

Quán triệt sâu sắc tinh thần Nghị quyết Đại hội X Đảng bộ tỉnh, cả hệ thống chính trị tỉnh nhà cùng đồng lòng, chung sức, quyết tâm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội. Mặc dù phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức, song, với tinh thần Đồng khởi mới, với sự nỗ lực, phấn đấu của toàn thể nhân dân, cùng sự lãnh đạo, quản lý, điều hành năng động, sáng tạo của các ngành, các cấp, trong nửa nhiệm kỳ qua, tình hình kinh tế - xã hội của tỉnh đã có chuyển biến tích cực, tạo được những “điểm sáng” nền tảng trên từng lĩnh vực để chúng ta vững tin sẽ thực hiện thành công mục tiêu, nhiệm vụ đề ra trong cả nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Kinh tế trên đà tăng trưởng

Nửa nhiệm kỳ qua, toàn tỉnh đã phấn đấu thực hiện khá tốt các chỉ tiêu phát triển kinh tế, nhất là chỉ số tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Giai đoạn 2016 - 2018, bình quân tốc độ tăng trưởng kinh tế (GRDP) tăng 6,92%, đạt xấp xỉ cận dưới chỉ tiêu Nghị quyết - NQ (7 - 7,5%). Đặc biệt, trong năm 2017 vừa qua, tốc độ tăng trưởng kinh tế của tỉnh tăng vượt bậc, đạt 7,23%. Kết quả nổi trội này đã minh chứng rõ nét tinh thần “Đồng khởi” của Đảng bộ, chính quyền và nhân dân tỉnh nhà. Cơ cấu kinh tế cũng có sự thay đổi tích cực và đúng định hướng: phát triển khu vực kinh tế thương mại - dịch vụ, ổn định khu vực kinh tế công nghiệp - xây dựng và giảm dần khu vực kinh tế nông nghiệp. Mô hình tăng trưởng từng bước được chuyển đổi từ phát triển theo chiều rộng sang kết hợp hài hòa giữa chiều rộng với chiều sâu.

Nông nghiệp phát triển theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Trong nửa nhiệm kỳ qua, giá trị sản xuất nông nghiệp ước đạt 66.776 tỷ đồng, bằng 49,8% chỉ tiêu NQ cả nhiệm kỳ. Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới (NTM) và hoàn thiện chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp đạt kết quả bước đầu, với 4/8 chuỗi sản phẩm chủ lực được hình thành và phát triển. Các mô hình sản xuất nông nghiệp an toàn, hiệu quả được nhân rộng. Nuôi thủy sản theo tiêu chuẩn chất lượng được thực hiện tốt. Cơ cấu cây trồng, vật nuôi được chuyển đổi phù hợp, mang lại hiệu quả cao hơn, đặc biệt là sản phẩm “bưởi da xanh” và “dừa xiêm xanh” và “Bò Ba Tri” của tỉnh đã được công nhận chỉ dẫn địa lý “Bến Tre”, góp phần khẳng định giá trị, chất lượng, thương hiệu và nâng sức cạnh tranh của sản phẩm nông nghiệp tỉnh nhà trên thị trường. Chăn nuôi gia súc, gia cầm phát triển theo hướng bền vững, an toàn, chủ yếu theo quy mô trang trại gắn với bảo vệ môi trường. Nuôi trồng và đánh bắt thủy sản phát triển khá mạnh; khai thác thủy sản tiếp tục phát triển theo hướng đánh bắt xa bờ; hạ tầng phục vụ hậu cần nghề cá tiếp tục được đầu tư, mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ.

Khu vực công nghiệp - xây dựng tăng trưởng ổn định ở mức cao với tốc độ tăng trưởng đạt 10,22%. Một số ngành công nghiệp có lợi thế so sánh tiếp tục phát triển như chế biến dừa, công nghiệp phụ trợ… Giá trị sản xuất công nghiệp giai đoạn 2016 - 2018 ước đạt 58.989 tỷ đồng, bằng 39,2% chỉ tiêu NQ cả nhiệm kỳ. Đến nay, đã thu hút được 44 dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp, với tổng vốn đầu tư 625,2 tỷ đồng. Hạ tầng công nghiệp được tập trung đầu tư, trong đó ưu tiên bố trí và huy động vốn để xây dựng hạ tầng các khu, cụm công nghiệp. Đến nay, Khu công nghiệp Giao Long I, II và An Hiệp đã lắp đầy, các cụm công nghiệp Phong Nẫm, Thị trấn - An Đức, Long Phước lắp đầy khoảng 32,43% diện tích... Khu công nghiệp Phú Thuận đang khẩn trương hoàn chỉnh hồ sơ để thực hiện giải phóng mặt bằng. Hệ thống mạng lưới truyền tải điện được cải tạo, xây dựng mới, đáp ứng nhu cầu sản xuất và sinh hoạt của nhân dân, góp phần đưa tỷ lệ hộ dân sử dụng điện đạt 99,85%. Ngoài ra, tỉnh rất quan tâm phát triển các nguồn năng lượng sạch như điện gió, điện mặt trời, với 11 dự án điện gió đã được cấp chủ trương đầu tư và đang thực hiện thủ tục lập quy hoạch phát triển năng lượng điện mặt trời trên địa bàn tỉnh để làm cơ sở thu hút đầu tư vào lĩnh vực này.

Thương mại, dịch vụ và du lịch phát triển khá. Chất lượng dịch vụ được nâng lên, một số dịch vụ mới được hình thành và phát triển. Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ xã hội giai đoạn 2016 - 2018 ước đạt 89.355 tỷ đồng, đạt 35,4% chỉ tiêu NQ. Hạ tầng thương mại được đầu tư theo hướng hiện đại, hoạt động của siêu thị đạt hiệu quả cao và đang được đầu tư xây dựng tại huyện Mỏ Cày Nam và Ba Tri. Hệ thống chợ nông thôn được xây dựng mới và nâng cấp, đáp ứng nhu cầu mua bán hàng hóa của người dân. Trung tâm Thương mại hội nghị triển lãm Bến Tre đã hoàn thành, đưa vào sử dụng sẽ tạo thêm không gian cho tỉnh trong tổ chức các hoạt động xúc tiến thương mại và quảng bá các sản phẩm tiềm năng, thế mạnh của địa phương. Kim ngạch xuất khẩu tăng trưởng khá với 2.017 triệu USD, đạt bình quân 13,5%/năm, với các sản phẩm chủ yếu từ dừa, thủy sản và hàng may mặc... Lĩnh vực du lịch được chú trọng, với mục tiêu phát triển du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, tỉnh đã thực hiện đồng bộ các giải pháp để tạo ra các sản phẩm du lịch đặc thù của địa phương, nhằm thu hút du khách… Đặc biệt là nhiều hoạt động lễ hội, các sự kiện văn hóa, tuần lễ ẩm thực, du lịch... được các địa phương trong tỉnh tổ chức khá thành công, thu hút hàng chục ngàn lượt khách đến tham quan, vui chơi tại tỉnh.

Kết cấu hạ tầng được quan tâm đầu tư khá đồng bộ. Nửa nhiệm kỳ qua, tỉnh đã huy động tổng vốn đầu tư toàn xã hội là 36.468 tỷ đồng, đạt 45,5% chỉ tiêu NQ. Đến nay, có nhiều công trình đã hoàn thành, đưa vào sử dụng và đang phát huy hiệu quả thiết thực, nhất là hạ tầng giao thông, thủy lợi, trường học, trạm y tế... Xây dựng đô thị đạt kết quả khả quan, TP. Bến Tre đã cơ bản đạt tiêu chí đô thị loại II, đã công nhận thị trấn Ba Tri và thị trấn Bình Đại đạt đô thị loại IV và 12 đô thị loại V, đồng thời thu hút đầu tư 9 khu dân cư, đô thị với tổng diện tích 525,69ha và vốn đầu tư lên đến 1.705 tỷ đồng. Môi trường đầu tư kinh doanh được cải thiện, nhận được sự đánh giá cao từ cộng đồng doanh nghiệp và giới chuyên môn. Chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) tăng 7 bậc so với năm 2015, đứng thứ 5/63 tỉnh, thành phố. Các chính sách thu hút đầu tư được ban hành và tổ chức thực hiện tốt. Doanh nghiệp và hộ kinh doanh thành lập mới tăng nhanh, đạt 84,27% chỉ tiêu về doanh nghiệp và 48,11% chỉ tiêu về hộ kinh doanh. Chương trình Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp đạt kết quả khá tốt; mạng lưới hỗ trợ khởi nghiệp được xây dựng rộng khắp; hoạt động đào tạo, nâng cao năng lực doanh nghiệp và đội ngũ cán bộ thực hiện công tác hỗ trợ khởi nghiệp được chú trọng, góp phần nâng cao nhận thức, định hướng nghề nghiệp trong thanh thiếu niên, nhiều dự án khởi nghiệp được triển khai và đạt hiệu quả thiết thực.

Hoạt động tài chính, ngân hàng lành mạnh; công tác bồi dưỡng và khai thác nguồn thu được thực hiện tốt. Nửa nhiệm kỳ qua, tổng thu ngân sách trên địa bàn luôn đạt và vượt dự toán được giao, đảm bảo nhiệm vụ chi theo tiến độ được duyệt, đạt 8.045 tỷ đồng, bằng 50,6% chỉ tiêu NQ; tổng chi ngân sách đạt 17.554 tỷ đồng, bằng 43,3% chỉ tiêu NQ. Hoạt động ngân hàng phát triển ổn định, với nhiều giải pháp huy động nguồn vốn và mở rộng cho vay được thực hiện có hiệu quả, ước đến cuối tháng 6-2018, tổng dư nợ đạt 29.050 tỷ đồng, tăng 53% so với đầu nhiệm kỳ; trong đó, dư nợ cho vay phục vụ sản xuất, kinh doanh chiếm 71%; chất lượng tín dụng được nâng lên, nợ xấu được kiểm soát ở mức thấp.

Văn hóa - xã hội chuyển biến khá rõ nét

Các hoạt động trên lĩnh vực văn hóa - xã hội được thực hiện khá tốt, cơ bản đạt chỉ tiêu đề ra, gắn kết hài hòa giữa nâng cao chất lượng đời sống tinh thần với phát triển kinh tế, kết hợp đầu tư phát triển với bảo đảm phúc lợi và an sinh xã hội. Công tác phòng chống dịch bệnh và chăm sóc sức khỏe nhân dân được quan tâm thực hiện, với kết quả đạt khá. Mạng lưới y tế cơ sở tiếp tục được củng cố và hoàn thiện; cơ sở vật chất, trang thiết bị y tế được đầu tư nâng cấp, nhiều kỹ thuật tiên tiến và hiện đại được áp dụng, đạt hiệu quả cao trong chẩn đoán và điều trị. Chất lượng đội ngũ y, bác sĩ được nâng cao, đáp ứng được nhu cầu khám, chữa bệnh của người dân. Tỷ lệ người dân tham gia bảo hiểm y tế đạt 89,65%, vượt chỉ tiêu NQ đề ra. Công tác y tế dự phòng, kiểm soát an toàn vệ sinh thực phẩm được tăng cường, với nhiều giải pháp đồng bộ, đã kéo giảm số vụ ngộ độc thực phẩm so với trước.

Hoạt động văn hóa, thể dục - thể thao, thông tin và truyền thông được triển khai thực hiện có hiệu quả, đáp ứng khá tốt yêu cầu phục vụ nhiệm vụ chính trị và nâng cao đời sống tinh thần của nhân dân. Phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa tiếp tục được duy trì và nâng chất, gắn với xây dựng xã văn hóa NTM, đồng thời lồng ghép trong thực hiện chủ trương “Phát huy các giá trị truyền thống văn hóa và phát triển toàn diện con người Bến Tre”. Các cơ quan báo chí, phương tiện thông tin đại chúng tại tỉnh hoạt động đúng quy định, tập trung tuyên truyền, phổ biến kịp thời các chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các sự kiện nổi bật của địa phương.

Công tác giảm nghèo được thực hiện đồng bộ với nhiều giải pháp thiết thực, nhất là triển khai Đề án phát triển đa dạng sinh kế, thoát nghèo bền vững và Chương trình khởi nghiệp thoát nghèo giai đoạn 2016 - 2020; thực hiện kịp thời các chính sách về y tế, giáo dục, nhà ở, vốn vay... đã góp phần kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo bình quân 1,91%/năm (NQ là 1,5%/năm). Phong trào Đền ơn đáp nghĩa, chăm lo đời sống người có công với cách mạng được quan tâm thực hiện kịp thời, có hiệu quả. Công tác quản lý lao động, tư vấn dạy nghề và giới thiệu việc làm chuyển biến tích cực, đặc biệt là xuất khẩu lao động đạt kết quả khả quan, nổi bật là năm 2017 thực hiện vượt 38% so với kế hoạch đề ra.

Giáo dục và đào tạo tiếp tục phát triển về quy mô và chất lượng theo tinh thần đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo. Mạng lưới trường, lớp tiếp tục được đầu tư; nội dung, phương pháp dạy và học, kiểm tra và đánh giá kết quả học tập có đổi mới. Phân hiệu Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh tại tỉnh Bến Tre được thành lập và vận hành khá thông suốt, trong đó tập trung đào tạo các ngành mà tỉnh đang có nhu cầu. Chất lượng nguồn nhân lực được nâng lên, nhất là trình độ, năng lực và kỹ năng thực hành.

Bộ máy chính quyền năng động, kiến tạo

Hệ thống bộ máy chính quyền địa phương từng bước đổi mới và nâng cao chất lượng, hiệu quả hoạt động. Vai trò của đại biểu HĐND được phát huy khá cao; hoạt động tiếp xúc cử tri, chất vấn và giám sát ngày càng đi vào chiều sâu, tạo được sự tin tưởng, tín nhiệm của nhân dân. Công tác sắp xếp, kiện toàn các cơ quan, tổ chức hành chính, đơn vị sự nghiệp công lập được thực hiện theo hướng tinh gọn, hiệu quả, phù hợp với yêu cầu phát triển của địa phương. Hoạt động quản lý, tuyển dụng, sử dụng cán bộ, công chức, viên chức được thực hiện đúng quy định, đặc biệt là thực hiện nghiêm nguyên tắc cạnh tranh trong tổ chức thi tuyển công chức các cấp, cũng như thi tuyển lãnh đạo, quản lý để lựa chọn những cá nhân xuất sắc, nổi trội về năng lực, trình độ và phẩm chất vào công tác trong bộ máy nhà nước, nhất là những cá nhân được bổ nhiệm giữ chức vụ lãnh đạo. Công tác cải cách hành chính được chú trọng thực hiện, với trọng tâm là cải cách thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hóa và rút ngắn thời gian thực hiện, ứng dụng công nghệ thông tin trong thực thi công vụ được đẩy mạnh, giúp bộ máy chính quyền hoạt động đạt hiệu quả cao hơn và năng động, thuận lợi hơn trong xử lý công việc...

Công tác đảm bảo an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội được thực hiện tốt. Hoạt động đấu tranh phòng chống tham nhũng, tội phạm, bài trừ tai nạn, tệ nạn xã hội được tăng cường, với nhiều giải pháp đồng bộ, hiệu quả. Công tác đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy, nổ được tập trung thực hiện quyết liệt... So với nửa đầu nhiệm kỳ trước, tuy phạm pháp hình sự tăng 3,92%, nhưng nhiều loại tội phạm rất nghiêm trọng, đặc biệt nghiêm trọng và các tai nạn, tệ nạn xã hội đều được kéo giảm. Tai nạn giao thông đường bộ giảm 2 mặt (giảm 40,24% số vụ và 68,6% số người bị thương). Công tác tiếp dân và giải quyết khiếu nại tố cáo của công dân có tiến bộ, nhất là trách nhiệm của các cấp, các ngành được nâng lên. Hoạt động đối ngoại và ngoại giao nhân dân được mở rộng, góp phần nâng cao vị thế của tỉnh trong quan hệ đối ngoại, hợp tác và thu hút đầu tư nước ngoài.

Nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm thực hiện đến năm 2020

Từ những kết quả đã đạt được và bài học kinh nghiệm đúc kết qua nửa nhiệm kỳ, đồng thời trên cơ sở nhận định, đánh giá tình hình, điều kiện và nguồn lực thực tế của địa phương, trong nửa nhiệm kỳ còn lại, UBND tỉnh sẽ tập trung chỉ đạo, quản lý và điều hành linh hoạt, đúng định hướng, góp phần hoàn thành cao nhất các mục tiêu, nhiệm vụ đề ra, với những nội dung trọng tâm như sau:

1. Triển khai thực hiện có hiệu quả các giải pháp để thúc đẩy phát triển kinh tế; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh cho mọi hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn tỉnh. Thực hiện quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh, nâng cao năng lực cạnh tranh. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các hoạt động trong chương trình Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp; xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp, hệ sinh thái phục vụ phát triển cuộc cách mạng công nghiệp 4.0.

Ngành may mặc Bến Tre phát triển mạnh và đang có xu hướng xuất khẩu sản phẩm sang Nhật, Mỹ…  Ảnh: C.Trúc

Ngành may mặc Bến Tre phát triển mạnh và đang có xu hướng xuất khẩu sản phẩm sang Nhật, Mỹ…  Ảnh: C.Trúc

2. Củng cố mối liên kết sản xuất chặt chẽ cho các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực đã hình thành và tiếp tục xây dựng cho các chuỗi giá trị sản phẩm nông nghiệp chủ lực còn lại, đồng thời lồng ghép đồng bộ với việc triển khai thực hiện đề án xây dựng “Mỗi xã một sản phẩm” trên địa bàn tỉnh. Sử dụng có hiệu quả nhãn hiệu, chỉ dẫn địa lý “Bến Tre”, nhằm góp phần nâng cao giá trị và chất lượng sản phẩm của địa phương. Phối hợp với các bộ, ngành trung ương xúc tiến nhanh việc thành lập Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển dừa Việt Nam tại tỉnh Bến Tre.

3. Phân bổ nguồn lực và tổ chức thực hiện có hiệu quả các giải pháp thiết thực để đến năm 2020 xây dựng huyện Chợ Lách đạt chuẩn huyện NTM và TP. Bến Tre hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM; hoàn thành đạt mục tiêu xây dựng số xã đạt chuẩn NTM và thực hiện đạt 4 TC: giao thông (TC 2), thu nhập (TC 10), môi trường và an toàn thực phẩm (TC 17), quốc phòng và an ninh (TC 19) ở các xã trong tỉnh. Thực hiện có hiệu quả chính sách hỗ trợ, khuyến khích phát triển hợp tác xã, tổ hợp tác theo hướng gắn kết sản xuất với thị trường để nâng cao thu nhập, cải thiện đời sống người dân một cách bền vững.

4. Tiếp tục thực hiện tốt Đề án phát triển thương mại, dịch vụ và du lịch giai đoạn 2016 - 2020 và kế hoạch phát triển thương mại điện tử. Xúc tiến thương mại gắn với quảng bá, giới thiệu sản phẩm đặc thù của địa phương. Phát triển đa dạng các loại hình du lịch xứ Dừa, cải thiện sản phẩm du lịch hiện có và khai thác các sản phẩm du lịch mới; tập trung đầu tư, phát triển du lịch thành nền kinh tế quan trọng của tỉnh. Thực hiện đồng bộ các giải pháp mở rộng tín dụng trên địa bàn, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng tiếp cận nguồn vốn, đáp ứng nhu cầu phát triển sản xuất, kinh doanh.

5. Phối hợp chặt chẽ với các ngành, các cấp để đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động người dân đồng thuận trong công tác giải phóng mặt bằng để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ đầu tư đối với các dự án, công trình trọng điểm theo Nghị quyết của HĐND tỉnh về thu hồi đất thực hiện các dự án, công trình trên địa bàn tỉnh. Chấn chỉnh công tác đầu tư công, nhất là kiểm soát tốt chất lượng thiết kế, thi công và tổ chức đấu thầu đúng quy định; giải ngân vốn đầu tư theo kế hoạch; đặc biệt là ưu tiên nguồn vốn cho các dự án trọng điểm như Khu công nghiệp Phú Thuận, Cụm công nghiệp Phong Nẫm (giai đoạn 2), Cụm công nghiệp Long Phước, đường huyện 173, Dự án chống chịu với biến đổi khí hậu huyện Ba Tri, Dự án Bệnh viện đa khoa tỉnh, Dự án nâng cấp đô thị TP. Bến Tre...

6. Tăng cường năng lực phòng chống thiên tai và thích ứng với biến đổi khí hậu. Quản lý tốt tài nguyên đất, nước và rừng. Triển khai xây dựng Quy hoạch tổng thể kinh tế - xã hội tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đẩy mạnh thực hiện liên kết vùng; chủ động và tích cực phối hợp triển khai có hiệu quả các chương trình hợp tác, liên kết với các đơn vị, địa phương, nhất là thỏa thuận hợp tác với TP. Hồ Chí Minh và liên kết hợp tác phát triển bền vững tiểu vùng duyên hải phía Đông đồng bằng sông Cửu Long.

7. Hoàn thành việc rà soát mạng lưới trường lớp, cơ sở vật chất, đội ngũ giáo viên để chuẩn bị thực hiện chương trình giáo dục phổ thông mới giai đoạn 2018 - 2020. Tiếp tục đầu tư, nâng cấp cơ sở vật chất và trang thiết bị cho ngành giáo dục, ngành y tế; phát triển hệ thống y tế ngoài công lập; kiểm tra, kiểm soát tốt vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm. Tổ chức có hiệu quả các hoạt động văn hóa, nghệ thuật; tuyên truyền, giáo dục đạo đức, lối sống trong nhân dân, nhất là giới trẻ; nâng cao chất lượng phong trào Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa và cuộc vận động Toàn dân đoàn kết xây dựng NTM, đô thị văn minh.

8. Nâng cao hiệu quả, chất lượng hoạt động dịch vụ việc làm, kết nối thị trường lao động, tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu lao động; sắp xếp, tổ chức lại hệ thống đào tạo nghề gắn với giải quyết việc làm, đáp ứng yêu cầu nhân lực có chất lượng cho các khu/cụm công nghiệp và doanh nghiệp. Thực hiện hiệu quả Đề án phát triển đa dạng sinh kế, thoát nghèo bền vững; hỗ trợ hộ nghèo, hộ cận nghèo thuộc diện người có công thoát nghèo bền vững, phấn đấu đến cuối năm 2019 không còn hộ nghèo chính sách.

9. Tổ chức thực hiện đồng bộ, quyết liệt NQ số 18, 19-NQ/TW của Hội nghị Trung ương 6 (khóa XII) về công tác tinh gọn tổ chức, bộ máy trong hệ thống chính trị. Nâng cao năng lực, ý thức trách nhiệm, kỹ năng công tác và trình độ cho đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là người đứng đầu đơn vị. Tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào quản lý nhà nước. Đẩy mạnh rà soát thủ tục hành chính để hợp lý hóa và đồng bộ hóa các quy trình giải quyết thủ tục hành chính từ tỉnh đến cơ sở; rà soát, hoàn thiện và vận hành có hiệu quả các dịch vụ công trực tuyến mức độ 3, từng bước tiến tới thực hiện cấp độ 4 trên toàn tỉnh.

10. Triển khai đồng bộ các giải pháp bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội, bảo vệ bí mật Nhà nước; an ninh tư tưởng - văn hóa; an ninh kinh tế; an ninh thông tin mạng; an ninh tuyến biển... Giải quyết tốt những vấn đề phức tạp phát sinh; đẩy mạnh công tác tuyên truyền, vận động, giáo dục, hướng dẫn về an ninh, trật tự và an toàn xã hội; phòng chống tham nhũng, tội phạm và bài trừ tệ nạn xã hội, đảm bảo trật tự an toàn giao thông, phòng chống cháy, nổ; thường xuyên củng cố, nâng chất lực lượng nòng cốt ở cơ sở... Mở rộng các mối quan hệ hợp tác, hữu nghị với các quốc gia, tổ chức quốc tế để tìm cơ hội hợp tác phát triển, cũng như tranh thủ sự hỗ trợ của các đối tác này trong phát triển kinh tế - xã hội tỉnh nhà.

Theo dự báo, tình hình kinh tế giai đoạn 2018 - 2020 diễn biến khó lường, với cơ hội, thách thức đan xen. Vì vậy, để hoàn thành các chỉ tiêu, nhiệm vụ đặt ra, cả hệ thống chính trị và nhân dân tỉnh nhà phải chủ động nắm chắc thời cơ, năng động và sáng tạo trong công tác, lao động, sản xuất; các ngành, địa phương phải quyết liệt, sâu sát trong quản lý, điều hành, tạo thế và lực mới đủ mạnh để thúc đẩy kinh tế phát triển nhanh, toàn diện, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu đề ra trong nhiệm kỳ 2015 - 2020.

Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng NTM được tập trung triển khai thực hiện quyết liệt, đồng bộ và thống nhất trên toàn tỉnh. Đối với các xã đăng ký đạt chuẩn NTM trong năm, khi đảm bảo các yêu cầu, quy định của chương trình, tỉnh sẽ tập trung, dồn sức thực hiện. Lũy kế đến nay, tỉnh có 24/147 xã được công nhận đạt chuẩn NTM (tăng 19 xã so với giai đoạn 2010 - 2015), chỉ còn 2 xã đạt dưới 5 tiêu chí - TC (giảm 4 xã so với giai đoạn 2010 - 2015); trung bình đạt TC trên xã là 11,42 TC, tăng 1,02 TC so với cuối năm 2015. Đối với nhiệm vụ xây dựng huyện NTM, Chợ Lách đã khẩn trương triển khai thực hiện các giải pháp từ huyện đến xã, đến nay đã đạt 3/9 TC huyện NTM và có 3/10 xã đạt chuẩn xã NTM. Ngoài ra, TP. Bến Tre cũng đang dồn sức, tập trung thực hiện để hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM đối với các xã trên địa bàn. Hiện nay, thành phố đã có 2/7 xã đạt chuẩn và đối với 5 xã còn lại, thành phố đã đề ra lộ trình cụ thể, với bước đi hài hòa, phù hợp nhằm hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM vào năm 2020.


 Cao Văn Trọng - Phó bí thư Tỉnh ủy, Chủ tịch UBND tỉnh

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN