“Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp tỉnh Bến Tre”: Đạt được nhiều kết quả quan trọng bước đầu

27/04/2018 - 07:19

BDK - Chương trình hành động số 10 của Tỉnh ủy về “Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển doanh nghiệp tỉnh Bến Tre” được triển khai cách nay 2 năm (từ 28-4-2016). Với phương châm “năng động - sáng tạo” trong thực hiện cùng với sự quyết tâm, nỗ lực của cả hệ thống chính trị từ tỉnh đến cơ sở, sự đồng thuận và tham gia của người dân, cộng đồng doanh nghiệp (DN), chương trình đạt được nhiều kết quả quan trọng bước đầu, làm tiền đề để thực hiện thắng lợi các mục tiêu đến năm 2020.

Đoàn viên, thanh niên tham quan, học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong thực hiện các mô hình khởi nghiệp. Ảnh: Cẩm Trúc

Đoàn viên, thanh niên tham quan, học tập kinh nghiệm lẫn nhau trong thực hiện các mô hình khởi nghiệp. Ảnh: Cẩm Trúc

Dịp sơ kết 2 năm triển khai chương trình, ông Phan Văn Mãi - Phó bí thư Thường trực Tỉnh ủy kiêm Chủ tịch Hội đồng Tư vấn khởi nghiệp (KN) và phát triển DN tỉnh cho biết:  

- Một số kết quả có thể kể đến như: phát triển mới 1.696 DN và đơn vị trực thuộc thành lập mới, nâng tổng số DN toàn tỉnh hiện có 3.912 DN, thành lập mới 10.216 hộ kinh doanh cá thể, nâng số hiện nay lên 46.423 hộ; thành lập mới 44 hợp tác xã (HTX), lũy kế đạt 90 HTX; tỷ lệ hộ nghèo còn 8,5%...

Trong 2 năm qua, hội đồng đã tiếp nhận và hỗ trợ cho 387 ý tưởng/dự án khởi nghiệp (KN), kết quả chọn lọc đã hỗ trợ trực tiếp cho 168 ý tưởng/dự án. Chương trình đã hỗ trợ vốn 774 dự án/DN KN với tổng kinh phí khoảng 802 tỷ đồng từ các nguồn vốn (Quỹ đầu tư KN tỉnh, Quỹ khoa học và công nghệ, Quỹ hợp tác công tư của Dự án AMD Bến Tre, nguồn vốn khuyến công, vốn vay ưu đãi của các ngân hàng thương mại, các nguồn vốn lồng ghép khác).

Cũng qua kết quả thực hiện chương trình, toàn tỉnh có 39.832 lao động được giải quyết việc làm; có 1.436 lao động xuất khẩu lao động nước ngoài; 4.133 hộ thoát nghèo, giúp kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo đến năm 2017 còn 8,5%. Đây là một nhánh kết quả đáng trân trọng, thể hiện tiếp cận toàn diện và nhân văn của Chương trình hành động số 10.

* PV: Để đạt những kết quả bước đầu, tỉnh đã tích cực cải thiện hệ sinh thái KN và xây dựng tỉnh thành địa phương KN như thế nào?

- Ông Phan Văn Mãi: Với mục tiêu khơi dậy tinh thần lập nghiệp, KN, xây dựng môi trường đầu tư kinh doanh thuận lợi cho KN và phát triển DN, thu hút đầu tư, tỉnh đã xây dựng được một hệ sinh thái KN tương đối hoàn chỉnh. Các tổ chức của Hội đồng tư vấn đã tập trung thực hiện các hoạt động có hiệu quả như công tác đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao năng lực, xây dựng và ban hành các chính sách hỗ trợ DN, nhà đầu tư; cải cách thủ tục hành chính về đầu tư, kinh doanh và thúc đẩy KN; tổ chức các sân chơi, cuộc thi KN; đẩy mạnh các hoạt động tư vấn, hỗ trợ KN; đối thoại DN; kết nối, hỗ trợ vốn cho KN; liên kết, hợp tác triển khai hoạt động KN; phát triển kinh tế hợp tác.

Tỉnh đã triển khai nhất quán, có hiệu quả các chính sách hỗ trợ của Trung ương, ban hành một số chính sách khuyến khích đầu tư của tỉnh. Điển hình là chính sách khuyến khích DN KN trên địa bàn tỉnh, chính sách khuyến khích đầu tư vào hạ tầng khu/cụm công nghiệp; chính sách khuyến khích xây dựng chợ; chính sách khuyến khích đầu tư vào lĩnh vực xã hội hóa.

Thanh niên khởi nghiệp với gạo hữu cơ Thạnh Phú và kinh doanh thủy sản dưới tán rừng. Ảnh: C.Trúc

Thanh niên khởi nghiệp với gạo hữu cơ Thạnh Phú và kinh doanh thủy sản dưới tán rừng. Ảnh: C.Trúc

Bước đầu, nhận thức của đội ngũ cán bộ, công chức chuyển đổi từ “quản lý” sang “phục vụ”. Đặc biệt, với vai trò đầu mối, Trung tâm Xúc tiến đầu tư và KN đã chủ trì, phối hợp với các sở, ngành hỗ trợ xuyên suốt cho nhà đầu tư từ khâu tìm hiểu thông tin ban đầu, thực hiện các thủ tục đầu tư đến triển khai dự án; rút ngắn thời gian giải quyết thủ tục hành chính từ 30 - 50% so với quy định. Hoạt động hỗ trợ, thúc đẩy kinh tế tập thể phát triển cũng được tập trung triển khai có hiệu quả, đổi mới và chất lượng hơn theo hướng cụ thể.

Với quyết tâm của bộ máy chính quyền, cùng sự đồng hành, chia sẻ của cộng đồng DN trong tỉnh, trong 2 năm (2016 - 2017), chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI) của tỉnh đã tăng từ hạng 12 lên hạng 5/63 tỉnh, thành phố trong cả nước; chỉ số cải cách hành chính (PAPI) xếp hạng 2/63 tỉnh, thành phố.

* Trong quá trình triển khai thực hiện, còn tồn tại những hạn chế nào cần quan tâm, thưa ông?

- Bên cạnh những kết quả đạt được, chương trình bộc lộ nhiều hạn chế. Cụ thể như, một số sở, ngành, địa phương chưa chủ động, sáng tạo trong việc triển khai thực hiện. Một bộ phận cán bộ, công chức thiếu nhiệt tình, còn cứng nhắc khi hỗ trợ tháo gỡ khó khăn cho các DN. Còn nhiều địa phương chưa thật sự quan tâm triển khai các mục tiêu, nhiệm vụ của chương trình. Các câu lạc bộ được thành lập nhưng chưa thật sự phát huy vai trò dẫn dắt, phối hợp và hỗ trợ cho cộng đồng KN của tỉnh. Quỹ đầu tư KN tỉnh quy mô còn nhỏ. Đa số dự án/mô hình KN từ nông nghiệp nhưng thiếu sáng tạo, ứng dụng khoa học. Việc đưa vào giảng dạy môn học “Tìm hiểu kinh doanh” tại các trường THPT còn gặp nhiều khó khăn do vốn kiến thức về KN, kinh doanh trong cán bộ, giáo viên còn nhiều hạn chế.

* Xin ông cho biết những trọng tâm triển khai chương trình trong thời gian sắp tới?

- Mục tiêu chủ yếu của chương trình từ nay đến năm 2020, toàn tỉnh thành lập mới ít nhất 1.500 DN (trong đó có 475 hộ kinh doanh cá thể đủ điều kiện chuyển đổi lên DN; 350 DN KN; 7 DN KHCN); thành lập ít nhất 14.000 hộ kinh doanh cá thể; hỗ trợ đăng ký quyền sở hữu trí tuệ cho 8 nhãn hiệu; 15 lượt DN tham gia Dự án năng suất chất lượng. Phấn đấu xây dựng 8 mô hình HTX trên 8 sản phẩm nông nghiệp chủ lực của tỉnh để nhân rộng; thành lập và vận hành có hiệu quả Vườn ươm KN tỉnh; 100% hộ nghèo, cận nghèo (15.858 hộ) đăng ký tham gia Đề án phát triển đa dạng sinh kế, thoát nghèo bền vững tỉnh giai đoạn 2016 - 2020 (có ít nhất 7.263 hộ thoát nghèo bền vững), đến năm 2020, kéo giảm tỷ lệ hộ nghèo toàn tỉnh xuống dưới 5,5%.

Để thực hiện đạt mục tiêu đó, Hội đồng tư vấn đã đề ra các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm. Trong đó, phải tổ chức thực hiện đồng bộ, có hiệu quả các mục tiêu, giải pháp của chương trình Đồng khởi KN và phát triển DN, nhất là ở cấp huyện và cấp xã, nâng cao trách nhiệm người đứng đầu. Kiện toàn và nâng cao chất lượng hoạt động của các ban, các tổ giúp việc trực thuộc Hội đồng Tư vấn tỉnh. Từng ban, tổ giúp việc phải xây dựng quy chế, kế hoạch hoạt động cụ thể để triển khai thực hiện các nhiệm vụ được giao. Đồng thời, xác định rõ trách nhiệm của từng ban với từng sở, ngành để đảm bảo thực hiện hiệu quả.

Cấp ủy và chính quyền địa phương cần có kế hoạch rà soát kết quả thực hiện trong thời gian qua, từ đó xác định nhiệm vụ cần tập trung và phân công người thực hiện cụ thể, trong đó cần kiểm tra, đánh giá định kỳ.

Nâng cao hiệu quả công tác truyền thông KN, hỗ trợ truyền thông ở cấp cơ sở, xây dựng nội dung, chương trình truyền thông dễ hiểu, dễ tiếp cận và đúng với từng nhóm đối tượng KN và DN, khuyến khích KN đổi mới sáng tạo. Tiếp tục thực hiện tốt công tác cải cách thủ tục hành chính, nhất là trong lĩnh vực đầu tư kinh doanh để kiến tạo môi trường KN thực chất thông qua việc nâng cao chất lượng hỗ trợ, rút ngắn nhất thời gian thực hiện thủ tục, thúc đẩy phát triển DN và KN. Đào tạo, bồi dưỡng nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức có phẩm chất đạo đức tốt, có năng lực, có tính chuyên nghiệp cao, tận tụy, nhất là các đối tượng trực tiếp hỗ trợ DN; chuyển tâm thế của đội ngũ cán bộ, công chức, viên chức từ “quản lý” sang “phục vụ”, hỗ trợ  “đến nơi - đến chốn”. Tiếp tục xây dựng hoàn thiện Hệ sinh thái KN tỉnh; phát huy vai trò của từng tổ chức trong Hệ sinh thái KN tỉnh; nhất là vai trò dẫn dắt của Câu lạc bộ DN dẫn đầu; vai trò kết nối, hỗ trợ của Câu lạc bộ KN tiên phong tỉnh.

Trong đào tạo, tập huấn KN, quan tâm tổ chức các lớp căn bản về KN, quản lý DN, tiếp cận vốn - thị trường, tư duy đổi mới sáng tạo, phát triển các hình thức đào tạo mới, hiệu quả. Tỉnh sẽ củng cố, nâng chất hoạt động Quỹ đầu tư KN. Phấn đấu đến năm 2020, quy mô quỹ đạt 50 tỷ đồng, tập trung đầu tư các dự án KN trên lĩnh vực nông nghiệp kỹ thuật cao, du lịch, các dự án đổi mới sáng tạo. Đồng thời, những năm tiếp theo, tỉnh thực hiện tốt công tác kết nối nguồn vốn cho KN và DN từ ngân hàng, các quỹ đầu tư, xã hội. Bên cạnh là xây dựng và triển khai đề án hỗ trợ DN nhỏ và vừa tỉnh Bến Tre.

Trước mắt trong năm 2018, thành lập và vận hành có hiệu quả Vườn ươm KN tỉnh, khuyến khích phát triển các không gian làm việc chung trên địa bàn tỉnh. Trong việc hỗ trợ ý tưởng, dự án KN cần xác định rõ thị trường, khách hàng mục tiêu để xác định mô hình kinh doanh phù hợp; trên cơ sở đó, tập trung nỗ lực hỗ trợ DN KN tiếp cận nguồn vốn, khoa học công nghệ, quản trị và tháo gỡ những vướng mắc trong quá trình hoạt động.

* Xin cảm ơn ông!

 “Các địa phương phải xác định cho được, cho đúng số hộ tham gia Đề án phát triển đa dạng sinh kế, thoát nghèo bền vững, phân công từng đoàn thể hỗ trợ từng hộ tham gia đề án, vận động hỗ trợ thanh niên tham gia xuất khẩu lao động, học nghề; thực hiện tốt công tác thông tin, hỗ trợ giải quyết các thủ tục hành chính, tháo gỡ các vướng mắc của hộ kinh doanh, HTX, DN trên địa bàn; phát hiện, kịp thời vận động các hộ kinh doanh đủ điều kiện lên DN, hình thành các HTX gắn với xây dựng các chuỗi giá trị; vận động, hỗ trợ thành lập mới DN trên địa bàn” - Phó bí thư Thường trực Tỉnh ủy Phan Văn Mãi lưu ý .

Cẩm Trúc (thực hiện)

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN