Nghị quyết số 19-2017/NQ-CP của Chính phủ đã nêu trách
nhiệm đối với các bộ, ngành, địa phương một cách rõ ràng, cụ thể hơn nhiều so với
các năm trước đây. Đồng thời xác định mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp và trách
nhiệm gắn với 41 chỉ tiêu về môi trường kinh doanh, 114 chỉ tiêu về năng lực cạnh
tranh toàn cầu, 85 chỉ tiêu về đổi mới sáng tạo và 10 chỉ tiêu về chính phủ điện
tử.
Hội nhập quốc tế sâu rộng đang tạo ra những cơ hội thuận
lợi chưa từng có cho nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, hội nhập cũng đặt DN
trong nước vào cuộc cạnh tranh khốc liệt và ở nhiều khía cạnh là chưa cân sức.
Chưa cân sức về vốn, quy mô, nguồn nhân lực cao, về công nghệ tiên tiến, về quản
trị doanh nghiệp hiện đại… Chưa cân sức giữa những DN khổng lồ quốc tế đã có
thâm niên vài chục, thậm chí vài trăm năm và DN Việt Nam đa số còn nhỏ, vừa và
cũng đa phần mới thành lập từ năm 2007 tới nay...
Về những yếu tố làm giảm năng lực cạnh tranh của DN Việt
Nam hiện nay, trước hết phải kể tới việc lãi suất cho DN vay cao so với khu vực
và thế giới. Thống kê cho thấy năm 2016, phần lớn DN nhỏ và vừa Việt Nam vay
ngân hàng xoay quanh lãi suất 9%/năm. Trong khi đó, DN Đài Loan (Trung Quốc)
vay với lãi suất 2%/năm, lãi suất của DN Nhật Bản xoay quanh 1%/năm…
Điều quan trọng nhất hiện nay là cần phải đưa lãi suất
cho DN Việt Nam vay trở về mức ngang bằng với khu vực và thế giới. Để làm được
điều này, hệ thống ngân hàng sẽ phải xem lại và trả lời hàng loạt câu hỏi, như
vì sao ngân hàng các nước trong khu vực phát triển tốt với lãi suất cho DN vay
thấp, nhờ nguồn thu từ đâu, liệu có phải từ dịch vụ, từ đổi mới khoa học công
nghệ ngân hàng…
Để có thể giảm được lãi suất cho vay, hệ thống ngân hàng
thương mại Việt Nam cần điều chỉnh cơ cấu tín dụng theo hướng tập trung ưu tiên
cho sản xuất, kinh doanh, nông thôn, xuất khẩu, công nghiệp hỗ trợ DN nhỏ và vừa,
DN ứng dụng công nghệ cao… giảm bớt tín dụng cho khu vực DN nhà nước.
Muốn điều chỉnh cơ cấu tín dụng, ngân hàng phải thay đổi
căn bản cách thức cho vay. Tiến hành cho vay chủ yếu theo quản lý dòng tiền,
hình thức thế chấp chỉ xem là phụ.
Nguyên nhân thứ hai, công nghệ lạc hậu khiến khả năng cạnh
tranh của sản phẩm hàng hóa Việt Nam kém. Lạc hậu về công nghệ nên chi phí sản
xuất của DN luôn cao hơn chi phí trung bình của thế giới từ 20 - 30%, trong khi
chất lượng chưa tương xứng.
Do đó, các cơ quan nhà nước có thể hỗ trợ tư vấn về thiết
bị, công nghệ mới hiện đại, cung cấp thông tin công nghệ, thị trường cho các DN
Việt Nam. Quan trọng hơn, tạo lập và phát triển thị trường công nghệ, có chính
sách cho vay ưu đãi để đổi mới máy móc, thiết bị…
Nguyên nhân thứ ba, đội ngũ chủ chốt quản trị DN Việt Nam
còn yếu. Trong khi các DN khu vực và quốc tế thực hiện quản trị DN hiện đại, áp
dụng chuẩn mực theo thông lệ quốc tế thì các DN Việt Nam quản trị còn nặng quản
lý theo gia đình. Quản trị công ty chưa công khai minh bạch thông tin, chưa
theo chuẩn mực quản trị DN hiện đại. Có thể thấy điều này qua việc số DN Việt
Nam niêm yết trên thị trường chứng khoán còn quá ít, chưa đến 1% DN đang hoạt động.
Trong khi đó, hiện tượng chảy máu chất xám đang có xu hướng
tăng khi nhiều đội ngũ CEO, nguồn nhân lực chất lượng cao chạy sang làm thuê
cho các công ty nước ngoài.
Tình trạng này lại gây ra hệ quả là chi phí nhân công chất
lượng cao ở Việt Nam hiện nay đang rất đắt, làm giảm sức cạnh tranh của DN.
Theo đánh giá của Ngân hàng Thế giới, Việt Nam đang rất thiếu lao động có trình
độ tay nghề, công nhân kỹ thuật bậc cao. Nếu lấy thang điểm 10 thì chất lượng
nhân lực của Việt Nam chỉ đạt 3,79 điểm - xếp thứ 11/12 nước châu Á tham gia xếp
hạng; trong khi Hàn Quốc: 6,91, Ấn Độ: 5,76, Malaysia: 5,59, Thái Lan: 4,94.
Thực tế cho thấy, tỷ lệ sinh viên phải đào tạo lại sau
khi ra trường rất lớn. Trong khi đó số lượng DN Việt Nam mỗi năm tăng lên rất
nhiều, riêng năm 2016 có thêm 100 ngàn DN mới đăng ký thành lập đòi hỏi nhu cầu
đội ngũ nhân lực chất lượng cao ngày càng tăng.
Do đó, cần một kế hoạch để xây dựng, đào tạo và phát triển
đội ngũ quản trị DN, phục vụ cho 1 triệu DN có thể hoạt động kinh doanh hiệu quả
đến năm 2020.
Nguyên nhân cuối cùng, chính sách kinh tế của Nhà nước
trong nhiều trường hợp không được báo trước, nhiều thủ tục hành chính còn gây
khó khăn cho DN, dù trong 5 năm trở lại đây, chất lượng của các quy định pháp
luật đã có cải thiện đáng kể.
Các DN cần một hệ thống chính sách thuận lợi và ổn định
dài hạn. Cùng với đó, các thủ tục hành chính phải gọn, nhẹ, đơn giản nhất cho
DN, như quy trình cấp phép cho 1 dự án đầu tư xây dựng chỉ cần khoảng 6 - 9
tháng, thay vì khoảng 3 năm như hiện nay. Ở các nước, DN thường chỉ phải chờ tối
đa 6 tháng là đã có giấy phép xây dựng hoàn chỉnh.
Giải quyết được những vấn đề trên có thể là điều kiện
tiên quyết để cải thiện môi trường kinh doanh của Việt Nam, qua đó nâng cao
năng lực cạnh tranh của từng sản phẩm, DN và cả nền kinh tế.