Bài 6: Ngành công nghiệp đang tăng tốc

24/04/2017 - 07:43

Doanh nghiệp Chế biến dừa Lương Quới ứng dụng công nghệ sản xuất tiên tiến.

Trải qua chặng đường hình thành và phát triển, ngành công nghiệp Bến Tre tuy còn non trẻ nhưng có nhiều thành tựu đáng ghi nhận. Nhất là công nghệ chế biến ngành dừa.

Bước ngoặt quan trọng

Bến Tre có đặc thù riêng về vị trí địa lý cũng như những khác biệt về đặc điểm kinh tế địa phương. Năm 2006, Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết số 03 về đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006 - 2010 và định hướng đến năm 2020, ngành công nghiệp bắt đầu có sự định hình rõ ràng cùng với quy hoạch phát triển hai khu công nghiệp (KCN) An Hiệp và Giao Long. Một sự kiện khá quan trọng là ngày 30-4-2002, Thủ tướng Chính phủ Phan Văn Khải chính thức phát lệnh khởi công xây dựng công trình cầu Rạch Miễu, để phá thế độc đạo, cách trở giữa cù lao Bến Tre với tỉnh Tiền Giang, rút ngắn hành trình từ TP. Hồ Chí Minh về Bến Tre. 

Nhờ bước đột phá về mặt quan điểm, tư tưởng và táo bạo, thu hồi, giải tỏa đất ruộng kém hiệu quả để bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư, mở đường cho công nghiệp phát triển. Đầu tiên là KCN An Hiệp mà đặt nền móng là nhà máy đường, KCN Giao Long được triển khai thuận lợi hơn vì có được 100ha đất của ngành nông nghiệp. Khi cầu Rạch Miễu hoàn thành, doanh nghiệp đã đăng ký đầu tư lấp đầy diện tích KCN Giao Long, tạo đà để tỉnh tiếp tục lấp đầy KCN An Hiệp.

Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, một chặng đường không dài nhưng tạo bước chuyển biến đáng kể. Thành tựu phát triển công nghiệp hôm nay là tương xứng với tiềm năng và nội lực của Bến Tre. Với mục tiêu, định hướng là công nghiệp chế biến dừa, thủy sản nhằm phục vụ phát triển kinh tế nông nghiệp, Bến Tre đã đi đúng hướng và đạt yêu cầu. Trong đó, ngành chế biến dừa đã đạt đỉnh cao về công nghệ sản xuất, chế biến, đáp ứng yêu cầu thị trường xuất khẩu những sản phẩm cao cấp và đa dạng từ dừa.

“Trước đây, tỉnh thu ngân sách hoàn toàn từ nông nghiệp, mỗi năm vài chục tỷ đồng. Nhưng giờ chủ yếu thu từ công nghiệp với hơn 1.000 tỷ đồng/năm. Điều này đã minh chứng công nghiệp tỉnh đã tăng trưởng vượt bậc. Cái được khác là đảm bảo về môi trường, giải quyết hàng nông sản của người dân”, ông Huỳnh Văn Be - nguyên Bí thư Tỉnh ủy nói.

Bước phát triển đột phá của công nghiệp đã làm nên sự đổi thay lớn nơi vùng đất “cửa ngõ” ngay từ cái nhìn về diện mạo. Ông Trần Văn Hoàng - Phó chủ tịch UBND huyện Châu Thành cho biết, nếu lao động trong các KCN trên địa bàn có trên 31 ngàn thì trong đó lao động của huyện chiếm trên 1/3. Công nghiệp phát triển cũng kéo theo các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa bàn phát triển. Tập trung tại khu vực các KCN hiện có khoảng 4 ngàn phòng trọ của trên 300 hộ kinh doanh với hàng ngàn điểm phục vụ ăn uống, giải trí, mua sắm…

Xã An Phước có 137/644ha đất của 308 hộ dân giao cho KCN Giao Long. Ông Lê Minh Lợi - Bí thư Đảng ủy xã cho biết, công nghiệp trên địa bàn phát triển đã kéo theo phát triển về mọi mặt: diện mạo nông thôn khởi sắc, lao động thất nghiệp không còn, đường giao thông mở rộng, các cơ sở kinh doanh, thương mại, dịch vụ “mọc” lên ngày càng nhiều. Thu nhập bình quân đầu người từ 13 triệu đồng năm 2010 lên 27 triệu đồng năm 2015 và lên 33 triệu đồng năm 2016. Hộ nghèo giảm từ 92 hộ năm 2010 còn 42 hộ năm 2016 (đây là những hộ neo đơn, không có đất sản xuất và người già nên không có khả năng thoát nghèo).

Ngành dừa vươn lên

Nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngành dừa trên địa bàn tỉnh có cùng nhận định, hiện công nghệ chế biến ngành dừa Bến Tre đã đủ sức “sánh tầm” với thế giới. Những sản phẩm dừa cao cấp như: dầu dừa tinh khiết, sữa dừa, bột sữa dừa, nước dừa đóng lon, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và thị trường xuất khẩu. Toàn tỉnh (kể cả trong và ngoài KCN) đã phát triển gần 2.000 cơ sở, doanh nghiệp chế biến dừa. Giá trị sản xuất đạt trên 2.800 tỷ đồng năm 2016. Kim ngạch xuất khẩu ngành dừa đạt 150 triệu đô-la, chiếm trên 20% tổng kim ngạch xuất khẩu của tỉnh.

Năm 2016, Bến Tre tiếp tục thu hút các nhà đầu tư thành lập mới doanh nghiệp ngành dừa và cấp phép các dự án đầu tư mở rộng nâng cao công suất chế biến, đa dạng hóa sản phẩm. Công nghiệp phát triển đã phục vụ khá tốt cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Các nhà máy chế biến dừa đã thu mua gần như toàn bộ trái dừa của người dân. Năm 2016, ngành dừa đã tiêu thụ khoảng 500 triệu trái dừa khô và thu mua thêm dừa trái từ các tỉnh lân cận. Đây là tín hiệu lạc quan cho người trồng dừa Bến Tre. Bởi so với trước đây, có đến 80% sản lượng dừa trái của tỉnh được xuất thông qua Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Chỉ tính riêng mặt hàng cơm dừa nạo sấy, ngành công nghiệp dừa đã tiêu thụ trên 280 triệu trái dừa, chiếm 55% lượng dừa khô thu hoạch. Sữa dừa tiêu thụ 117 triệu trái, chiếm 23% lượng dừa khô của tỉnh.

***

Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh tiếp tục xác định công nghiệp là ngành kinh tế quan trọng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các khu, cụm công nghiệp được tập trung phát triển theo hướng hiện đại, trở thành ngành trọng điểm, tạo động lực phát triển kinh tế. Cơ cấu sản phẩm chuyển dịch theo hướng nâng cao sức cạnh tranh bền vững cho công nghiệp trong quá trình hội nhập. Các sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao được quan tâm đầu tư để tăng tỷ trọng, tăng lợi thế cạnh tranh và xuất khẩu. Đẩy mạnh thu hút đầu tư các ngành công nghiệp tạo ra sản phẩm có hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng mới. Tiếp tục đầu tư chiều sâu, đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng sản phẩm ngành công nghiệp chế biến dừa, chế biến thủy sản, nông sản thực phẩm.

Mục tiêu đến năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp đạt 38.040 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân 5 năm là 13,9%/năm. Giá trị tăng khoảng 22 ngàn tỷ đồng vào năm 2020, tăng trưởng bình quân 22,45%/năm. Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2020 đạt 5.400 triệu đô-la.

Chia sẻ bài học kinh nghiệm từ việc hình thành những KCN trước đây, ông Huỳnh Văn Be cho rằng, trong điều kiện nội lực đầu tư của tỉnh còn khó khăn, điều quan trọng vẫn phải tranh thủ huy động từ nhiều nguồn để cơ bản đáp ứng về hạ tầng cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tỉnh có phương án đổi đất cho nhà đầu tư để lấy hạ tầng KCN. Trong thời gian chờ đợi các KCN tiếp tục hình thành, tỉnh cũng đã thành lập 8/13 cụm công nghiệp, tổng diện tích trên 270ha.

Nhóm hàng chế biến nông, thủy sản chiếm tỷ trọng 57,27% đã khẳng định ưu thế phát triển công nghiệp của tỉnh là chế biến dừa và chế biến thủy sản. Nhóm hàng cơ khí, điện, điện tử tăng nhanh, chiếm trên 19%. Nhóm hàng dệt may chiếm trên 10,9%, trong đó chủ yếu là nhóm hàng may mặc chiếm tỷ trọng 6,3%. Nhóm hàng công nghiệp hóa chất chiếm gần 3,2% và các sản phẩm khác chiếm trên 7%.

Xuất khẩu hàng công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng nhanh về quy mô, giá trị kim ngạch xuất khẩu năm 2016 cao gấp hơn 20 lần so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng 35%/năm, đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra.

Bài, ảnh: Cẩm Trúc

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN

Liên kết hữu ích