Bước ngoặt quan trọng
Bến Tre có đặc thù riêng về vị trí địa lý cũng như những
khác biệt về đặc điểm kinh tế địa phương. Năm 2006, Tỉnh ủy ban hành Nghị quyết
số 03 về đẩy mạnh phát triển công nghiệp trên địa bàn tỉnh giai đoạn 2006 -
2010 và định hướng đến năm 2020, ngành công nghiệp bắt đầu có sự định hình rõ
ràng cùng với quy hoạch phát triển hai khu công nghiệp (KCN) An Hiệp và Giao
Long. Một sự kiện khá quan trọng là ngày 30-4-2002, Thủ tướng Chính phủ Phan
Văn Khải chính thức phát lệnh khởi công xây dựng công trình cầu Rạch Miễu, để
phá thế độc đạo, cách trở giữa cù lao Bến Tre với tỉnh Tiền Giang, rút ngắn
hành trình từ TP. Hồ Chí Minh về Bến Tre.
Nhờ bước đột phá về mặt quan điểm, tư tưởng và táo bạo,
thu hồi, giải tỏa đất ruộng kém hiệu quả để bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư, mở
đường cho công nghiệp phát triển. Đầu tiên là KCN An Hiệp mà đặt nền móng là
nhà máy đường, KCN Giao Long được triển khai thuận lợi hơn vì có được 100ha đất
của ngành nông nghiệp. Khi cầu Rạch Miễu hoàn thành, doanh nghiệp đã đăng ký đầu
tư lấp đầy diện tích KCN Giao Long, tạo đà để tỉnh tiếp tục lấp đầy KCN An Hiệp.
Sau hơn 10 năm hình thành và phát triển, một chặng đường
không dài nhưng tạo bước chuyển biến đáng kể. Thành tựu phát triển công nghiệp
hôm nay là tương xứng với tiềm năng và nội lực của Bến Tre. Với mục tiêu, định
hướng là công nghiệp chế biến dừa, thủy sản nhằm phục vụ phát triển kinh tế
nông nghiệp, Bến Tre đã đi đúng hướng và đạt yêu cầu. Trong đó, ngành chế biến
dừa đã đạt đỉnh cao về công nghệ sản xuất, chế biến, đáp ứng yêu cầu thị trường
xuất khẩu những sản phẩm cao cấp và đa dạng từ dừa.
“Trước đây, tỉnh thu ngân sách hoàn toàn từ nông nghiệp,
mỗi năm vài chục tỷ đồng. Nhưng giờ chủ yếu thu từ công nghiệp với hơn 1.000 tỷ
đồng/năm. Điều này đã minh chứng công nghiệp tỉnh đã tăng trưởng vượt bậc. Cái
được khác là đảm bảo về môi trường, giải quyết hàng nông sản của người dân”,
ông Huỳnh Văn Be - nguyên Bí thư Tỉnh ủy nói.
Bước phát triển đột phá của công nghiệp đã làm nên sự đổi
thay lớn nơi vùng đất “cửa ngõ” ngay từ cái nhìn về diện mạo. Ông Trần Văn
Hoàng - Phó chủ tịch UBND huyện Châu Thành cho biết, nếu lao động trong các KCN
trên địa bàn có trên 31 ngàn thì trong đó lao động của huyện chiếm trên 1/3.
Công nghiệp phát triển cũng kéo theo các hoạt động thương mại, dịch vụ trên địa
bàn phát triển. Tập trung tại khu vực các KCN hiện có khoảng 4 ngàn phòng trọ của
trên 300 hộ kinh doanh với hàng ngàn điểm phục vụ ăn uống, giải trí, mua sắm…
Xã An Phước có 137/644ha đất của 308 hộ dân giao cho KCN
Giao Long. Ông Lê Minh Lợi - Bí thư Đảng ủy xã cho biết, công nghiệp trên địa
bàn phát triển đã kéo theo phát triển về mọi mặt: diện mạo nông thôn khởi sắc,
lao động thất nghiệp không còn, đường giao thông mở rộng, các cơ sở kinh doanh,
thương mại, dịch vụ “mọc” lên ngày càng nhiều. Thu nhập bình quân đầu người từ
13 triệu đồng năm 2010 lên 27 triệu đồng năm 2015 và lên 33 triệu đồng năm
2016. Hộ nghèo giảm từ 92 hộ năm 2010 còn 42 hộ năm 2016 (đây là những hộ neo
đơn, không có đất sản xuất và người già nên không có khả năng thoát nghèo).
Ngành dừa vươn lên
Nhiều doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh ngành dừa trên địa
bàn tỉnh có cùng nhận định, hiện công nghệ chế biến ngành dừa Bến Tre đã đủ sức
“sánh tầm” với thế giới. Những sản phẩm dừa cao cấp như: dầu dừa tinh khiết, sữa
dừa, bột sữa dừa, nước dừa đóng lon, đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng và thị trường
xuất khẩu. Toàn tỉnh (kể cả trong và ngoài KCN) đã phát triển gần 2.000 cơ sở,
doanh nghiệp chế biến dừa. Giá trị sản xuất đạt trên 2.800 tỷ đồng năm 2016.
Kim ngạch xuất khẩu ngành dừa đạt 150 triệu đô-la, chiếm trên 20% tổng kim ngạch
xuất khẩu của tỉnh.
Năm 2016, Bến Tre tiếp tục thu hút các nhà đầu tư thành lập
mới doanh nghiệp ngành dừa và cấp phép các dự án đầu tư mở rộng nâng cao công
suất chế biến, đa dạng hóa sản phẩm. Công nghiệp phát triển đã phục vụ khá tốt
cho sản xuất nông nghiệp của tỉnh. Các nhà máy chế biến dừa đã thu mua gần như
toàn bộ trái dừa của người dân. Năm 2016, ngành dừa đã tiêu thụ khoảng 500 triệu
trái dừa khô và thu mua thêm dừa trái từ các tỉnh lân cận. Đây là tín hiệu lạc
quan cho người trồng dừa Bến Tre. Bởi so với trước đây, có đến 80% sản lượng dừa
trái của tỉnh được xuất thông qua Trung Quốc theo đường tiểu ngạch. Chỉ tính
riêng mặt hàng cơm dừa nạo sấy, ngành công nghiệp dừa đã tiêu thụ trên 280 triệu
trái dừa, chiếm 55% lượng dừa khô thu hoạch. Sữa dừa tiêu thụ 117 triệu trái,
chiếm 23% lượng dừa khô của tỉnh.
***
Giai đoạn 2016 - 2020, tỉnh tiếp tục xác định công nghiệp
là ngành kinh tế quan trọng để thực hiện mục tiêu tăng trưởng và chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Các khu, cụm công nghiệp
được tập trung phát triển theo hướng hiện đại, trở thành ngành trọng điểm, tạo
động lực phát triển kinh tế. Cơ cấu sản phẩm chuyển dịch theo hướng nâng cao sức
cạnh tranh bền vững cho công nghiệp trong quá trình hội nhập. Các sản phẩm có
hàm lượng công nghệ cao được quan tâm đầu tư để tăng tỷ trọng, tăng lợi thế cạnh
tranh và xuất khẩu. Đẩy mạnh thu hút đầu tư các ngành công nghiệp tạo ra sản phẩm
có hàm lượng công nghệ cao, công nghiệp hỗ trợ, năng lượng mới. Tiếp tục đầu tư
chiều sâu, đổi mới nâng cao trình độ công nghệ, năng suất, chất lượng sản phẩm
ngành công nghiệp chế biến dừa, chế biến thủy sản, nông sản thực phẩm.
Mục tiêu đến năm 2020, giá trị sản xuất công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp đạt 38.040 tỷ đồng, tốc độ tăng trưởng công nghiệp bình quân 5
năm là 13,9%/năm. Giá trị tăng khoảng 22 ngàn tỷ đồng vào năm 2020, tăng trưởng
bình quân 22,45%/năm. Kim ngạch xuất khẩu đến năm 2020 đạt 5.400 triệu đô-la.
Chia sẻ bài học kinh nghiệm từ việc hình thành những KCN
trước đây, ông Huỳnh Văn Be cho rằng, trong điều kiện nội lực đầu tư của tỉnh
còn khó khăn, điều quan trọng vẫn phải tranh thủ huy động từ nhiều nguồn để cơ
bản đáp ứng về hạ tầng cho nhà đầu tư. Bên cạnh đó, tỉnh có phương án đổi đất
cho nhà đầu tư để lấy hạ tầng KCN. Trong thời gian chờ đợi các KCN tiếp tục
hình thành, tỉnh cũng đã thành lập 8/13 cụm công nghiệp, tổng diện tích trên
270ha.
Nhóm hàng chế biến nông, thủy
sản chiếm tỷ trọng 57,27% đã khẳng định ưu thế phát triển công nghiệp của tỉnh
là chế biến dừa và chế biến thủy sản. Nhóm hàng cơ khí, điện, điện tử tăng
nhanh, chiếm trên 19%. Nhóm hàng dệt may chiếm trên 10,9%, trong đó chủ yếu
là nhóm hàng may mặc chiếm tỷ trọng 6,3%. Nhóm hàng công nghiệp hóa chất chiếm
gần 3,2% và các sản phẩm khác chiếm trên 7%.
Xuất khẩu hàng công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp tăng trưởng nhanh về quy mô, giá trị kim ngạch xuất khẩu
năm 2016 cao gấp hơn 20 lần so với năm 2005, tốc độ tăng trưởng bình quân khoảng
35%/năm, đạt và vượt chỉ tiêu Nghị quyết đề ra. |