Bản lĩnh sống

11/11/2013 - 08:26
Từ trái qua: Vũ Hồng Thanh (nhà giáo), bác sĩ Hùng, họa sĩ Trường Chăm, nhà thơ Lê Hồng Phương và nhà văn Trần Ký. Ảnh tư liệu

Bản lĩnh sống là cái vốn có của mỗi con người. Trong quá trình sống để thích nghi và cải thiện môi trường sống dần dà con người hình thành bản lĩnh sống. Ấy thế mà những nhà chiến lược Mỹ vẫn không biết được trong cuộc chiến tranh dài cho đến tận hôm nay họ vẫn bàng hoàng hối tiếc vì sao lại đại bại trên chiến trường Việt Nam.

Họ mang cái giàu có - có một không hai định đổi chác cái quý nhất của chúng ta là “độc lập, tự do!”. Họ cứ nghĩ đô-la mua được tất cả. Đánh đố với đô-la là thách thức lớn nhất của thời đại…

Khi cuộc chiến leo thang đến đỉnh cao. Mỹ đã đưa vào chiến trường Việt Nam đủ loại vũ khí tân kỳ chưa từng sử dụng trong thế chiến thứ hai. Từ chiến trường nhỏ hẹp của Bến Tre chúng tôi rất băn khoăn đối với chiến trường khác; cũng như các chiến trường rừng núi lại vọng về lo lắng cho những chiến trường đồng bằng đông dân làm sao chịu đựng nổi những đợt B52 rải thảm “cày bừa” tung tốc từng gốc rạ. Năm 1965, chúng tôi được dịp đi dự Hội nghị báo chí Khu 8 ở vùng Kiến Tường nơi đồng nước mênh mông làm sao chống chỏi được với bọ “thủy phi thoàn” - nhất động nhất tịnh có thể nhào tới truy đuổi không có con đường thoát. Chúng tôi vô cùng ngạc nhiên khi bảo vệ Hội nghị khai thông cách đối phó với địch là những tấm đế (cây đế cùng loại như cây sậy nhưng dai chắc hơn, mọc phổ biến vùng đồng nước) được bện sẵn phát cho đại biểu và cho biết hễ có máy bay trực thăng hay “thủy phi thoàn” thì phải ra ngay khỏi nhà, tránh dựa vào lùm cây; đồng nước trống trải có bông súng, đầm sen càng tốt, mang theo tấm đế và cây sào dài. Khi máy bay địch tới gần cắm sào thật chặt, phủ tấm đế lên đầu và lặn xuống nước. Chao ôi, thật lạ lùng - mới nghe qua đã thấy rùng mình. Ở xứ miệt vườn, mỗi lần có Hội nghị, bảo vệ chỉ cho “vách đôi”, hay hầm bí mật, cùng lắm là trèo lên đọt dừa để chống địch càn quét; đối với bọn phi cơ, giặc trời thì có hầm hố cá nhân. Ở đây, nước ngập linh láng, không còn một chút đất nhô lên mặt nước, nên người ta buộc phải sống chung với nước, dùng nước để che chở, bảo vệ cho mình, để chống lại bom đạn địch. Từ chỗ Hội nghị đến căn cứ quân sự Thăng Bình - nơi xuất phát của máy bay trực thăng khoảng 3, 4 chục km. Hễ bảo vệ báo động chuẩn bị - khi máy bay địch hướng về ta thì ra lệnh tùy nghi di tản “động thủy” chớ không phải “động thổ” như xứ mình để “tàng hình”. Đối với chiến tranh hiện đại Mỹ, muốn tồn tại chiến đấu phải có bản lĩnh, phép mầu “thiên biến vạn hóa” như kiểu Tôn Ngộ Không thì mới tới được cõi “niết bàn” hạnh phúc ấm no. Đó là chuyện Hội nghị ở vùng đồng nước. Còn đường đi qua đồn bót, qua lộ cũng lắm gian nan chi xiết kể. Vừa mới tới, giao liên cho biết còn hằng chục đoàn bị kẹt chưa qua lộ được. Lộ Đông Dương khu vực ĐBSCL là đường 4 xuyên miền Tây, qua lộ được cũng ví như qua “cầu đầu thai” vậy. Thằng địch rất xỏ lá, chúng biết những đoạn đường huyết mạch của ta mà bố trí những đơn vị đặc nhiệm, có máy bay trực thăng, xe lội nước M113 thường trực càn quét, săn giết các đoàn cán bộ ta kẹt đường qua hai bên phía lộ Đông Dương. Có lần trên đường từ R trở về qua lộ Đông Dương (khoảng Cai Lậy, Cái Bè), nhiều đoàn kẹt lại cả tháng trời qua không khỏi, bị địch đánh phá, càn quét liên tục; có đoàn 2, 3 chục người chỉ còn 3, 4 người là cùng; nhưng cũng gọi là may mắn vì có đoàn “trụi” luôn, không ai còn sống sót trở về địa phương. Đoàn chúng tôi có anh Tám Lê Hà – Phó Ban Tuyên huấn Tỉnh ủy, có móc “rờ mót” vào, là đoàn 12 nữ y sĩ vừa tốt nghiệp ở R trở về Bến Tre. Chúng tôi cũng bị kẹt ở đây gần tháng trời. Bấy giờ, lính Mỹ tràn ngập đồng bằng sông Cửu Long; trên lộ Đông Dương chúng trang bị hồng ngoại tuyến mà chúng tôi chưa được biết. Hằng chiều dù đi được hay không vẫn phải bám lộ, đoàn người rồng rắn cả nửa cây số cứ hằng đêm chầu chực ngồi chờ. Có lần khi vừa tới cận lộ đã nghe truyền miệng người trước chuyền cho người sau: - Có người bị thương – Có người chết, rồi đến cả 5 người hy sinh… thì có lệnh lấy đuôi làm đầu quay trở lại. Không nghe có súng nổ bao nhiêu chỉ lẹt đẹt vài phát, tại sao có sự cố bảo quay về. Thì ra, thằng Mỹ hết sức ma mãnh, không như bọn ngụy hễ nháng thấy ta thì xả hằng tràng đại liên vãi lên đầu, ỷ có đèn hồng ngoại chúng nhắm bắn tỉa từng phát một rất chính xác. Khi ta được lệnh thoát nhanh quay lại bám vườn thì chúng rót cối, pháo vào đội hình như để. Cả đoàn chạy loạn ngang dọc giữa đồng càng phơi mục tiêu cho bọn chúng bắn, sát thương nặng nề. Đoàn chúng tôi có cô Thanh, y sĩ quê ở Bình Đại, trước khi qua lộ cô thắt bím tóc cho gọn. Khi tháo ra miểng đạn pháo phứt ngang qua sát da đầu cắt đứt gần hết mái tóc chỉ còn sót một lọn nhỏ làm cho cả cô và đoàn đều thót tim. Không qua lộ được ở lại cũng không yên. Thằng địch đánh càn liên miên đẩy chúng tôi phải ra làm “tham mưu cụm”. Chúng tôi và anh Lê Hà ngồi bên công sự quan sát, theo dõi máy bay trinh sát để phán đoán hôm sau địch sẽ càn vùng nào, hướng nào. Hễ cánh máy bay địch nghiêng nhiều qua vạt vườn nào thì hôm sau y như rằng chúng sẽ đổ trực thăng càn hướng đó. Chúng tôi tiên liệu phần lớn đều đúng, nhờ vậy mà tránh được nhiều cuộc càn nguy hiểm. Kẹt lộ Đông Dương không chỉ có vận rủi không thôi, chỉ có căng thẳng nằm chui rút trong vườn hoang đói căng phải ăn đỡ bình bát chín và chuối chín háp mà lắm lúc còn được thảnh thơi nếu không nói là thích thú nữa. Đoàn giao bưu qua lộ ở đây không chỉ có “chì” mà đủ – tức là gan lì bám trụ; các anh quen với môi trường sống rực lửa ở đây đã trở thành một thứ bản lĩnh - một thứ nghệ thuật xuất thần, nhập thánh không ngờ được. Đoàn khách dù không qua được, dù địch giữ đường từ chập tối đến sáng tinh mơ, dù chúng có cả đèn hồng ngoại, nhưng đêm nào những kiện hàng giao bưu đều qua trót lọt; ít khi tắt đường được, đường huyết mạch mà. Ngồi rảnh hàn huyên mới thấy các anh có những mánh nghề hết sức độc đáo. Nào là trét bùn toàn thân để vô hiệu hóa ra-đa dò tìm sóng ngắn, nào cuốn vải nhựa bung qua phía bên lộ, sau đó lăn nhanh qua đường không phải chạy qua để tránh nhiễu tín hiệu di động và trải nhựa để không in dấu bùn trên lộ; hoặc đi ngược về phía sau lưng địch đang co cụm để vô hiệu hóa đèn hồng ngoại. Nghĩa là anh em dùng đủ mọi “mánh khóe” theo bản năng, cốt sao đưa kiện hàng và khách qua cung đường thông suốt.

Còn thích thú vì trong đoàn giao bưu có một anh tên là Dũng cùng quê Bến Tre được điều lên công tác tại đây. Trong chiến tranh “tình yêu quê hương là phải biết”, anh đã dành mọi sự ưu đãi cho đoàn, ngoại trừ cái việc “chết người” qua lộ thì không thể thiên vị ai được. Anh còn có biệt danh là “Dũng Lươn” - một tài nghệ bắt lươn trời phú, trở thành danh anh trong đoàn. Muốn ăn canh chua lươn thì cứ việc đi xin “con mẻ” (ở đây không dễ gì có me chua cũng như trái giác hoặc lá vang ở rừng, hay theo mùa còn có trái gáo - một loại trái chua để nấu canh cực kỳ ngon) nếu có cả củ chuối nước thường mọc trong đầm tràm và “lươn chồn” chỉ có tay Dũng Lươn mới bắt được thì thật là hết ý (“lươn chồn” nhiều người không biết về sự tiến hóa của vạn vật thấy con lươn sống lâu năm, tích lũy dinh dưỡng, ít hoạt động bươi chải kiếm ăn trở thành ú núc mập mạp, lại có cái đầu như có 2 lỗ tai, giống đầu con chồn, cho nên quả quyết lươn hóa thành chồn). Đến bây giờ không biết làm sao còn có những bữa canh chua “lươn chồn” nữa. Chính anh Dũng Lươn là người có sáng kiến đề xuất cho đoàn chúng tôi tách chị em y sĩ giả dân đi công khai qua lộ Đông Dương được trót lọt. Quả là một thứ bản lĩnh độc đáo không có trường nào dạy được.

Ở chiến trường, bọn Mỹ bất chấp Luật Quốc tế cấm sử dụng bom bi, bom nổ chậm, chất độc da cam; ngay như máy bay B52 rải thảm mà không biết ai đã sáng tác ra động từ “cày bừa” để chỉ rõ sự bật tung tất cả do B52 “làm cỏ” bất kể khu dân cư đông đúc. Cái sống cái chết trong gan tấc làm cho con người có một thứ bản lĩnh mới nghe qua rất đổi kỳ lạ đến nỗi các nhà chiến lược Mỹ không thể hiểu ra. Đó là việc “trọng cái chết hơn sự sống”. Cái triết lý này bình thường ít ai hiểu được. Bao giờ người ta cũng đều quý mạng sống. Chính vì điều đó mà đế quốc Mỹ dùng đô-la mua lấy vũ khí - bom đạn mong uy hiếp mạng sống chúng ta, buộc ta đứng trước một sự lựa chọn, đánh đổi mọi giá, mọi thứ, kể cả độc lập tự do để giữ lấy mạng sống. Nhưng chúng đã thất bại nhục nhã, thất bại đến mức ngu muội (không hiểu được vì sao – nguyên nhân nào dẫn chúng đến thất bại đầu tiên và duy nhất trong lịch sử nước Mỹ). Đó là một triết lý mới xem qua như đơn giản mà thật thâm thúy, sâu sắc có đầy đủ chất người trong mỗi con người. Ai cũng biết sự sống còn là vô giá – chết là hết. Phàm là con người ai cũng muốn bảo vệ sự sống cho mình, cho cả người thân của mình nữa, tìm mọi điều kiện có thể để vươn tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Nhiều khi lầm lũi tạo điều kiện sống tốt hơn người mà trở thành sa đọa, phạm nhiều tội ác.

Khi sự sống bị đẩy vào chân tường – một thứ bản lĩnh sống mới xuất hiện làm đảo lộn nhân sinh quan của con người. Triết lý “trọng cái chết hơn sự sống” không cho phép tìm đến những điều kiện cho cái chết được nhẹ nhàng hơn, ít đau đớn hơn. Một cái chết thánh thiện, vô tư, không vụ lợi, không điều kiện, thanh thản như người đã hoàn thành tốt nhất nghĩa vụ của mình, như người nông dân vừa gặt xong mùa màng.

Có lần chúng tôi phải đưa đứa em là chiến sĩ tử trận về nghĩa trang. Lúc bấy giờ chiến tranh đã đến mức khốc liệt, di chuyển ban ngày đã khó mà ban đêm càng không phải dễ. Địch cứ soi đèn dùng trực thăng đi bắn phá – đặc biệt trên các tuyến giao thông. Đường đi trong vùng giải phóng, không có đồn bót, không sợ bị phục kích; nhưng địch vẫn lồ lộ trên đầu bất cứ lúc nào, mặc dù đường đêm mờ mịt. Từ cơ quan ở Thạnh Phú Đông vào nghĩa trang Tân Hào chừng hơn mười cây số mà gian truân chi xiết kể. Đoàn tùy táng có 5 người kể cả người chết nằm mắc trên võng được quy ước không thể để bị thương tiếp sau khi chết. Bốn tay khiêng hai đầu võng luôn phiên nhau lắm lúc phải trốn trong khoảng rậm, có khi lại phải cố vượt lên nhanh qua đồng trống nhỡ trực thăng quay lại soi đèn. Lẽ ra chỉ mất 3 giờ là cùng, đằng này mất đứt gấp đôi thời gian, mãi quá nửa đêm chúng tôi mới tới được nghĩa trang. Một vấn đề đặt ra là hết sức hóc búa không phải là cuốc xẻng để đào mà là hòm rương tẩn liệm. Đêm về khuya không biết hỏi ai – mà làm sao mở miệng để nài mượn một thứ “độc chiêu” như vậy, có người đề xuất đành chịu để chôn không như vậy. May mà, các đồng chí ở chi bộ chỉ ra ông chủ có cái hàng an dưỡng già ở vùng này. Chúng tôi đến thập thò bên cửa lần lựa chưa tiện bước vào thì ông chủ nhà – dáng người cao niên, thong dong bước ra cửa: - Cái thời chiến tranh này tuổi già có ngủ nghê gì được đâu. Mấy chú không nói tôi cũng đoán ra. Tử sĩ chết thành thần, thành thánh, không thể bó quan bằng chiếu đệm được đâu. Mấy chú cứ lấy cái áo quan này tẩn liệm cho tươm tất. Tử sĩ chết, anh linh vẫn còn mãi đấy!”.

Thú thật, chúng tôi vô cùng xúc động đến trào nước mắt, không phải vì chủ nhà gãi đúng chỗ ngứa của mình mà còn thấy có người như ông chủ nhà, vẫn nhận biết cái triết lý thời chiến tranh: “Chết là bất diệt” của những người trên tuyến đầu chống Mỹ. Một sự trùng hợp rất lạ lùng, có cây mai bỗng lại nở hoa vàng trái với chu kỳ xuân ngay đầu mộ đứa em vừa chôn xong. Và chị Mười, nhà cơ quan đóng nằng nặc đòi chúng tôi phải cúng cơm bữa cho người quá cố vì bảo rằng “tử sĩ có linh hồn” như cái triết lý mà ông chủ tặng cho không quan tài không chịu nhận tiền mà còn nói một cách thành khẩn: - Cái quan tài ấy xứng đáng gói cho con người bất tử. Y như chị Mười một mực cho là: “Người chiến sĩ hy sinh là còn mãi, là bất diệt, chớ không phải chết là cùng tận, là hết đi!”.

Cái triết lý này sao cứ vấn vương chúng tôi mãi suốt một thời kỳ khá lâu và về sau này mới vở lẽ ra cái chuyện đơn giản ấy cả các nhà chiến lược Mỹ, cũng không thể hiểu nổi.

Cái bản lĩnh sống của con người là hệ quả của môi trường sống. Môi trường sống càng thách thức khốc liệt bao nhiêu – vì điều tồn vong, điều cần phải sống, cần phải tồn tại để chiến đấu mà con người khinh thường cái chết và tổ chức lại cuộc sống sao cho thích ứng với môi trường nghiệt ngã ấy. Và từ những kinh nghiệm phản diện, những bài học cả thất bại và thành công lại trở thành truyền thống đẹp đẽ của gia tộc, của đơn vị, địa phương. Nhiều lần, sống căng thẳng trong không khí ác liệt phải chạy xà đùa mỗi khi Tỉnh ủy báo động tin tình báo điện tử cho hay địch càn, B52 bừa… chúng tôi bỗng thấy tỉnh queo, không hề biết lo sợ là gì. Thì ra đến một mức độ thách thức nhất định, con người trong cái mãnh lực sinh tồn bỗng tiết ra gan lì, lịch lãm và dày dạn thêm ra. Chúng tôi theo dõi nhận biết con “AVACS” xuất hiện – tức là máy bay trinh sát phản lực hiện đại của hạm đội bảy ngoài biển – nó rất dễ phân biệt vì đẹp cực kỳ hơn hết các kiểu máy bay Mỹ, có nước sơn bắt nắng sáng choang hực hỡ; hễ nó nghiêng cánh ở đâu, đảo qua lại ba vòng tròn thì thế nào hôm sau B52 cũng “bừa” vùng đó và chúng tôi lại hành quân thúc sát bên đồn bót địch. Sống chung với B52 riết rồi chúng tôi cũng nhận ra hơi bom nào của bom thường, hơi bom nào là kiểu đánh bom B52, hơi bom nào là cắt bom trộm ban đêm. Có thể ví như anh Dũng Lươn “xem mà” mà bắt được “lươn chồn”. Có anh Ba Soi bảo vệ cơ quan Tuyên huấn – có biệt tài bắt cá lóc không phản phé lần nào: hễ có cá lóc chạy dợn sóng trên mặt nước bất kể vùng nước rộng, sâu, dài đến đâu, lần hồi anh cũng thộp đầu chúng được nên nổi tiếng là Ba Soi. Đêm đóng quân ở Lương Hòa: đây là vùng hành lang ven tuyến giao thông 25 (Bến Tre – Ba Tri) mà cũng là ven thị trấn Giồng Trôm, nên địch tập trung bắn phá ác liệt. Loại pháo 105 ly bắn riết rồi cũng xem thường, chỉ có pháo 155 ly hay pháo hạm 250 ly được mệnh danh là “hũ đường” vì nó to bằng hũ đựng đường chảy – nó mà “hụm” một cái là rung rinh trời đất như cơn địa chấn. Nhưng địch bắn phá mãi rồi cũng trở thành quy luật, chúng tôi dần dà cũng nhận thức ra điểm đóng cơ quan nên tránh khỏi rạch Đường Xuồng – vì đây là đường tắt từ sông Tài Phú rẽ qua, địch biết được nên cứ bắn trường canh 2 giờ một lần. Chính vì vậy mà không ai dám bén mảng chài rớ ở đây và con rạch trở thành tụ hội tép bạc vô kể chỉ cần vãi chài vài ba lần là có mấy ký tép ăn mấy ngày chưa hết.

Điều giới hạn nữa là Voi Hòa Lợi địch khống chế để áng ngữ không cho ta tiếp cận thị trấn. Nắm được quy luật này, cơ quan chúng tôi về đóng lưng chừng hai điểm nút này. Bom pháo địch vút qua đầu không lúc nào dứt, song lại là “vùng an toàn”, quen rồi, chúng tôi không còn chạy hầm làm gì mà còn sống ung dung thoải mái, nhiều lần cả gan đợi cho đợt bắn pháo qua đi, chạy lên rạch “Đường Xuồng” vãi chài bắt tép về ăn. Có lần đi chài đêm trên sông Tài Phú - con sông mà địch từng nếm trải những đợt sóng của “Bạch Đằng Giang”. Pháo “hũ đường” nổ tung toé giăng nước khắp nơi. Chúng tôi thấy Việt Sơn, phóng viên lọ mọ đâu mất, hỏi ra mới biết anh ta tháo dây xuồng buộc dính vào cổ tay, phòng khi trúng đạn chết, anh em khỏi phải lặn mò tìm kiếm. Câu chuyện tuy nhỏ nhưng có ý nghĩa lớn vì nó bao hàm cả một triết lý về cái chết được coi nhẹ như lông hồng, không ai trốn chạy cái chết, sẵn sàng đương đầu, đối mặt với cái chết – coi đó là một thứ bản lĩnh của người đang sống, vẫn hăng hái làm mọi chuyện bình thường, không hề nao núng trước cái chết bất cập. Chài đêm trên vùng sông nước đầy dẫy bom đạn đan rú lại có nhiều thú vui bất ngờ vì tôm cá trúng lắm giúp cải thiện bữa ăn kham khổ trong kháng chiến và chứng minh sự hồn nhiên vui sống trong chiến tranh là đáp số tất yếu về bản lĩnh sống của những người kháng chiến, vừa nâng cao được tinh thần chịu đựng gian khổ vừa chứng minh một chân lý tựa hồ như nghịch lý: “Muốn khỏi chết thì không sợ chết” hay nói cách khác: “Sự sống chỉ tiếp tục sinh sôi từ cái không sợ chết”.

Chúng tôi muốn qua một chi tiết nhỏ này để gửi gắm thiểu kiến mà các nhà chiến lược Mỹ có vẻ còn khó hiểu:

Đế quốc Mỹ cứ nghĩ rằng càng tăng cường sức mạnh quân sự sẽ làm cho đối phương sợ hãi và cuối cùng chịu đầu hàng. Trái lại, ở một góc nhỏ của địa phương, chúng tôi cũng thấy được: “Mọi sự việc đều không theo sự xếp đặt, sắp hàng, định sẵn của những kẻ chủ mưu, đặt để ra nó. Nó vận hành theo quy luật vốn có của xã hội – nhân văn – nghĩa là đối tượng là con người có trí khôn, họ sẽ hành động theo phương pháp tối ưu nhất, vì có Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, làm tham mưu cho họ. Ta không trách các nhà chiến lược Mỹ bao giờ cũng vội vàng “tốc chiến, tốc quyết”, vì họ rất hiểu càng kéo dài, trường kỳ, càng bộc lộ sơ hở, những phi lý, phi nghĩa không thể bịt tai, bịt mắt ai được, chỉ có đánh nhanh, thắng nhanh, may ra còn kịp chưa bộc lộ công khai thế yếu và những nhược điểm không sao khắc phục nổi.

Dù vậy, chiến tranh đã kéo dài đến 21 năm còn gì. Thời gian hoàn toàn không ủng hộ kẻ phi nghĩa, xâm lược nhưng rõ ràng thời gian rất cần thiết để trui rèn bản lĩnh sống của chúng ta, chẳng những làm nên những dấu ấn lịch sử không thể phai mờ mà còn làm lịch lãm thêm bản lĩnh sống của những con người may mắn sống sót qua chiến tranh để tiếp tục cuộc hành trình thiên lý theo dòng thời gian.

Diệp Hà

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN