Bà ngoại tôi thường
kể rằng, những rặng dừa xanh mướt lá, ngày ngày đong đưa trước gió như thách đố
mái tóc dài óng ả của ngoại từ thời con gái. Hết ngoại tôi, đến mẹ tôi rồi đến
tôi đã nối tiếp nhau đùa giỡn, chơi trốn tìm, chơi nhảy dây, chơi nhà chòi…
dưới những tán dừa xanh không biết chán. Mà thật ra, chúng tôi đâu được diễm
phúc như trẻ con bây giờ, nếu có chán thì cũng chẳng biết chơi ở đâu và chơi
trò gì; cho nên bờ dừa, mương vườn dừa là sân chơi tốt nhất của chúng tôi.
Cái tuổi thơ êm đềm
của tôi được ru trong tiếng lá dừa reo lách tách xạc xào, át cả tiếng réo gọi,
đùa giỡn của tôi cùng chúng bạn. Bây giờ chúng tôi thường to giọng, ăn nói rổn
rảng hơn bè bạn ở thị thành có lẽ cũng từ thói quen cố nói cho át tiếng gió,
tiếng lá dừa reo thuở nhỏ.
Hồi đó chúng tôi
thường tét lá dừa thi nhau thắt đồ chơi. Những món đồ chơi dân dã bình dị
thường không phải tốn tiền. Chỉ là cái chong chóng, chiếc đồng hồ, con chim,
con cá… nhưng lại là một kỷ niệm khó phai mờ. Rồi chúng tôi cũng hái hoa dừa
kết thành vương miện, thành vòng đeo tay, đeo cổ và chơi trò chú rể - cô dâu,
đứa làm vợ, đứa làm chồng, để bây giờ mỗi lần nhắc lại đứa nào cũng ôm bụng cười
nắc nẻ, hai má ửng hồng. Náo động nhất là những hôm chúng tôi đua nhau thắt kèn
lá dừa. Mỗi đứa thắt hai ba cái, to có, nhỏ có, kèn “trép” có, kèn “bas” có rồi
thi nhau thổi tò tí te vang động cả xóm.
Lớn lên một chút,
sau những cuộc chơi mệt nhoài, chúng tôi thường lén leo bẻ dừa chia nhau uống
nước. Nó ngon vô cùng! Cứ bưng nguyên trái dừa bự chảng ngửa cổ uống ồng ộc,
hết đứa này chuyền sang đứa khác mặc cho nước dừa nhễu nhão, mặt mũi tèm lem và
ướt mem cả cổ, ngực.
Bây giờ nhiều đứa
trẻ không biết cây đuốc là gì và cũng rất ít thấy ai còn đi đuốc, kể cả ở thôn
quê. Đã có đèn pin, đèn điện thoại di động hết rồi. Có lần cháu tôi từ TP. Hồ
Chí Minh về quê chơi, thấy người ta đi đuốc, nó hoảng hốt chạy vào nhà réo gọi
inh ỏi: “Người ta bị cháy rồi kìa. Mau cứu họ cậu ơi!”. Tội nghiệp! Tôi phải
giải thích một hồi nó mới hết sợ.
Hồi đó ở thôn quê, đuốc lá dừa là phương tiện
duy nhất để soi sáng khi phải đi đêm. Ngoại tôi, mẹ tôi thường lấy lá dừa bó
đuốc chất đầy vựa củi và trên gác. Mẹ nói để dành đi chợ; còn ngoại - thật
thương cảm, xúc động - móm mém nói để ban đêm khuya khoắt có ai cần thì cho! Mà
đúng vậy, khách đi đường hết đuốc thường réo ngoại tôi. Tôi nhớ nhất là ánh
đuốc của mẹ, khuya khuya soi đường gồng gánh rau quả đi chợ bán. Nhà tôi cách
xa chợ bốn, năm cây số, thế mà gần như khuya nào cũng vậy, mẹ tôi quang gánh
nặng oằn, thui thủi một mình lần mò từng bước trên con đường đất gồ ghề, trơn
trợt với ánh đuốc chập chờn.
Hồi tôi còn bé, xe
cộ chưa nhiều, đường bộ chưa thuận tiện, muốn lên tỉnh lỵ chủ yếu đi bằng đò
máy. Khuya khuya, dọc hai bên bờ sông cái, lập lòe những ánh đuốc “gọi đò”. Cứ
nghe tiếng máy đò chạy đến thì ai nấy huơ đuốc, nhưng có khi năm lần bảy lượt
mới có một chuyến đò chịu ghé!
Mỗi lần tôi lên tỉnh học, mẹ tôi thức gần suốt
đêm, hết lui cui soạn áo quần, đến lăng xăng chuẩn bị cá, tép, trái cây cho tôi
mang theo. Dưới ánh sao trời chi chít và mảnh trăng non chênh chếch, hai mẹ con
tôi dắt nhau ra bến sông đợi đò. Ánh đuốc nhỏ nhoi trên tay mẹ chìm khuất hẳn
trong khoảng tối bao la mờ mịt của rừng dừa chốc chốc lại lóe lên; bây giờ tôi
mới nghĩ phải chăng lúc đó những tia hy vọng mong manh của mẹ cũng lóe theo khi
nghĩ về con đường học vấn và tương lai của tôi?
Năm tôi lên mười,
Bến Tre Đồng khởi. Cùng với tiếng mõ, tiếng trống, đoàn người ở quê tôi cũng
rầm rập ánh đuốc lá dừa rực sáng khắp đường làng, làm khiếp đảm quân thù. Bọn
lính trong đồn buông tay rã ngũ. Thế là quê tôi được giải phóng khỏi đêm dài
đen tối cùm gông. Tôi còn nhớ những năm ấy, dừa cũng tham gia chiến đấu. Những
cây dừa hai bên đường được vạt vỏ và vẽ đầy khẩu hiệu, nào là “Đả đảo chế độ
độc tài, gia đình trị Ngô Đình Diệm”, nào là “Đế quốc Mỹ hãy cút đi”, “Chủ
nghĩa Mác-Lênin bách chiến bách thắng”, “Chủ tịch Hồ Chí Minh muôn năm”…
Rồi địch phản công,
bà con đã đốn dừa làm hầm tránh bom, tránh pháo; nhờ thế mà nhiều gia đình được
tai qua nạn khỏi. Đáng kể nhất là người dân quê tôi đã kết dừa làm bè, phá sập
cầu Bình Chánh, cắt đứt tỉnh lỵ Bến Tre với hai quận Giồng Trôm, Ba Tri. Rồi bà
con đào hầm chông khắp các lối đi để ngăn giặc; mặt đường được phủ kín bằng lá
dừa để đối phương không thấy được miệng hầm. Cứ hết lớp lá này mục thì lớp lá
khác được thay lên.
Đâu khoảng năm
1965-1966, giặc Mỹ rải thuốc độc khai hoang hầu hết vườn dừa ở Bến Tre. Hàng
vạn cây dừa trơ trọi mất đầu cụt ngọn rồi ngã quỵ sau đó không lâu. Cả rừng dừa
trống trơn. Đời sống bà con vô cùng khốn đốn. Ai cũng tưởng rồi dân làng phải
chết đói và cách mạng rồi sẽ tan rã vì cán bộ hết nơi để ẩn náu và không còn
lương thực để ăn. Nhưng không, dân Bến Tre bất khuất, đâu dễ dàng gục ngã; dừa
Bến Tre kiên cường, tinh thần quật khởi đâu dễ mất đi. Lớp dừa tơ thay lớp dừa
lão. Chỉ mấy năm sau, rừng dừa Bến Tre lại xanh tươi và càng xanh tươi hơn sau
ngày đất nước thống nhất. Dừa lại tiếp tục nuôi sống người dân Bến Tre.
Trên nông thôn mới
hôm nay, dừa Bến Tre càng xanh tốt hơn và càng vươn xa hơn. Có lẽ dừa vẫn sẽ là
một trong những nguồn lợi chủ yếu của nhân dân ba dải cù lao.
Nhớ lại hồi còn bé,
bao năm được sự chở che đùm bọc của dừa nhưng chúng tôi vô tâm đến nỗi không
biết rằng những vườn dừa ấy đã nuôi lớn chúng tôi cả thể xác lẫn tâm hồn. Bây
giờ đi đâu, hễ nhìn thấy dừa là tôi lại da diết nhớ quê hương Bến Tre yêu dấu.
Nhớ hàng dừa trước ngõ với bao bè bạn thân thiết thuở ấu thơ. Nhớ gia đình còn
đủ ông bà, cha mẹ, anh chị em, đoàn tụ trong mái nhà ấm cúng dưới bóng dừa
xanh…
Những ánh đuốc chập
chờn của mẹ ngày xưa trên đường quê ra chợ hay những lần đưa tôi ra tỉnh lại
bùng sáng ấm áp trong tôi…