Bức xúc vì... thiếu nước sạch mùa khô

28/03/2014 - 07:45

Không mấy nhà ở nông thôn có được nước sạch như thế này.

Tỷ lệ hộ sử dụng nước sạch giữa thành thị và nông thôn trên địa bàn tỉnh còn khá xa. Sự chênh lệch về điều kiện sống cũng như nhu cầu về nước sạch đã và đang là một trong những vấn đề bức xúc lớn của người dân vùng nông thôn.

Khát khao có nước sạch

Theo số liệu mới nhất từ ngành chức năng, hiện tỷ lệ hộ nông thôn sử dụng nước sạch chỉ mới đạt 36,3%. Trong khi, tỷ lệ bao phủ về cấp nước sạch khu vực thành phố đạt 92,5% (theo Công ty TNHH Một thành viên Cấp thoát nước Bến Tre). Các địa phương khác như Châu Thành, Chợ Lách và Giồng Trôm, Công ty chỉ cung cấp cho khu vực thị trấn và một số vùng lân cận. Với tổng công suất thiết kế của nhà máy xử lý nước là 47.900m3/ngày. Cuối quý I-2014, công ty đưa vào vận hành cụm xử lý công suất 3.600m3/ngày tại trạm cấp nước Lương Quới, nâng công suất toàn hệ thống lên 51.500m3/ngày. Hầu hết các huyện lân cận thành phố và một số xã thuộc huyện biển cũng đã có xây dựng các nhà máy nước, tuy nhiên do công suất nhỏ nên chỉ đảm bảo cung cấp nước sạch đến những hộ thuộc khu vực thị trấn hoặc có vị trí gần khu vực trung tâm của huyện.

Như vậy, đối với các địa bàn xã hoặc khu vực chưa có nước sạch đến tận nhà, nhất là các xã biển, người dân phải tự dự trữ nước mưa hoặc nước ao hồ để sử dụng cho cả những tháng hạn, mặn. Ai đã từng sống tại các xã thuộc huyện biển - nơi còn thiếu nước ngọt sẽ cảm nhận hết những thiệt thòi mà người dân đang phải cam chịu.

Thời gian qua, từng lúc, tỉnh đã có thực hiện các chương trình hỗ trợ người dân nông thôn xây dựng hồ chứa nước hoặc bồn chứa nước. Đến nay, toàn tỉnh có tỷ lệ hộ sử dụng nước hợp vệ sinh nâng lên 82,3%. Tuy nhiên vào mùa hạn mặn, nước khan hiếm và nhu cầu có nước sạch để sử dụng càng là nỗi khát khao... Thời điểm này, đã có nhiều hộ buộc phải chấp nhận đổi nước giếng đào nhiễm phèn, mặn với mức giá đắt đỏ để sử dụng  vì nước dự trữ (hợp vệ sinh) không còn.

Thiệt thòi gấp mươi lần...

Theo thống kê của xã An Thủy (Ba Tri), đến nay, có 40-50% hộ trên địa bàn được sử dụng nước máy, phần còn lại sử dụng nước giếng khoan và nước tự lắng lọc. Còn tại xã An Đức (Ba Tri), “Chỉ có 21% số hộ toàn xã có nước máy đến tận nhà, tuy nhiên lúc có lúc không vì nhiều lý do. Trụ sở Ủy ban nhân dân xã cũng không có nước từ hơn 10 ngày nay. Tại ấp Giồng Cỏ có nước nhưng người dân phải đợi đến nửa đêm nước mới được bơm lên tới” - ông Phạm Văn Dũng - Chủ tịch UBND xã cho biết. Theo ông, đa số người dân trên địa bàn vì không có nước máy phải đổi lấy nước giếng đất đục ngầu, nhiễm phèn với giá từ 40.000 đến 60.000/xe tùy theo xa hay gần. Mức giá này cao đến gấp mươi lần so với giá nước máy, đó là chưa kể đến chất lượng nước. Thậm chí mức giá này sẽ còn tăng hơn nếu hạn mặn kéo dài.

So với An Đức (Ba Tri), vấn đề nước hợp vệ sinh dùng cho sinh hoạt tại xã Thừa Đức (Bình Đại) càng nan giải hơn. Theo anh Nguyễn Phước Thảo - cán bộ môi trường xã Thừa Đức: Toàn xã có trên 90% hộ sử dụng nước hợp vệ sinh. Nhưng vào thời điểm này, muốn có nước sử dụng, các hộ dân đã phải buộc lòng mua nước với giá 100.000 đồng/xe.

Riêng giá nước năm 2014 của các nhà máy nước trên địa bàn tỉnh đến thời điểm này vẫn ổn định (theo giá cũ do UBND tỉnh phê duyệt). Theo Sở Tài chính, nếu đơn vị nào tự điều chỉnh tăng giá mà chưa đăng ký Sở xem xét thì sẽ bị xử phạt vi phạm hành chính về giá.

Bài, ảnh: C.TRÚC

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN