 |
| Tặng quà các doanh nghiệp, cơ sở thu mua hợp tác tốt với doanh nghiệp. Ảnh: H.H |
Trong Đề án tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp, điều còn băn khoăn đối với nhiều đơn vị, ngành, tổ nông dân là liên kết 4 nhà để tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Thời gian qua, đã có nhiều giải pháp áp dụng nhưng xem ra chưa hiệu quả lắm bởi không có mấy mô hình để học hỏi kinh nghiệm được, mặc dù đã có nhiều hội thảo, khảo sát từ tỉnh đến huyện, xã. Vì sao?
Thời gian qua, ngành nông nghiệp đã có nhiều nỗ lực phối hợp với các ngành, địa phương, các doanh nghiệp đầu mối để xây dựng mô hình liên kết, tìm đầu ra cho sản phẩm nông nghiệp. Hiện toàn tỉnh đã có 11 mô hình sản xuất được cấp giấy chứng nhận GAP. Trong đó, có 7 mô hình VietGAP, 4 mô hình GAP được đánh giá là khá hiệu quả, đã từng bước khẳng định được chất lượng sản phẩm. Cụ thể như mô hình sầu riêng Sơn Định, chôm chôm Tiên Phú, măng cụt Long Thới, bưởi da xanh Phú Thành, Hòa Nghĩa, Phú Nhuận, nhãn Long Hòa. Đang tiếp tục hỗ trợ chứng nhận sản phẩm VietGAP cho 4 tổ liên kết sản xuất chôm chôm, bưởi da xanh, sầu riêng tại Châu Thành, Chợ Lách. Hay mô hình liên kết sản xuất, sơ chế và tiêu thụ dừa ở Châu Bình (Giồng Trôm) với 1.210ha, có 1.755 hộ dân tham gia.
Ngoài cây trái, lĩnh vực chăn nuôi cũng đã xuất hiện một số mô hình trang trại, gia trại, tổ hợp tác như nuôi heo trên đệm lót sinh học, có 50 hộ nuôi theo hình thức này ở Mỏ Cày Nam; mô hình nuôi heo trên đệm lót sinh học theo hình thức tổ hợp tác tại Cẩm Sơn với 31 hộ tham gia. Tuy vậy, mô hình liên kết sản xuất còn nhiều yếu kém, chưa được phát huy nhân rộng, do thiếu tính ổn định và bền vững. Cơ chế, chính sách còn nhiều ràng buộc giữa nông dân - doanh nghiệp trong sản xuất chưa phát huy tác dụng, chưa thật sự kết dính thông qua hợp đồng tiêu thụ, còn mang tính hình thức. Liên kết trên diện tích đất canh tác còn quá nhỏ lẻ, chưa thật sự quan tâm áp dụng khoa học công nghệ vào sản xuất. Chất lượng sản phẩm tuy từng bước có cải thiện nhưng mẫu mã chưa đều, số lượng ít, không đủ đáp ứng nhu cầu cho doanh nghiệp hợp đồng bao tiêu sản phẩm. Mặt khác, nông dân chưa có điều kiện nắm bắt thông tin thị trường, chưa ghi chép sổ sách theo dõi, tiếp thu khoa học kỹ thuật mới còn hạn chế, nhất là khâu bảo quản sản phẩm chưa có. Công tác tổ chức quản lý, hỗ trợ các mô hình chưa được quan tâm, chưa có giải pháp cụ thể để nhân rộng mô hình.
Theo đánh giá của Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT), nguyên nhân chưa có sự phối hợp chặt chẽ của các bên liên quan trong quá trình liên kết sản xuất, chưa có sự hài hòa lợi ích giữa các bên. Lợi ích đem lại từ các mô hình liên kết chưa thật sự thu hút nông dân, doanh nghiệp tham gia lâu dài. Các bên chưa đảm bảo quyền lợi tương xứng khi liên kết; doanh nghiệp - nông dân chưa có niềm tin lẫn nhau, thực sự đã phát sinh nhiều vấn đề mất lòng tin, làm vỡ đi mối liên kết. Sản xuất còn mang tính cá thể, manh mún, chưa tổ chức được bài bản, sản phẩm còn đơn giản, chưa mạnh, khả năng đáp ứng nhu cầu thị trường còn hạn chế. Đặc biệt, sản phẩm từ mô hình GAP đem lại giá trị gia tăng chưa đáng kể so với sản phẩm cùng loại ngoài mô hình, nhiều lúc tiêu thụ không được, giá lại thấp hoặc bằng với nuôi trồng bình thường. Không ít nhà vườn còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước, nhiều hộ chưa hiểu hết ý nghĩa, yêu cầu của liên kết. Do vậy, để liên kết thật sự hiệu quả thì cần có những động thái, việc làm thiết thực, cụ thể hơn. Tong đó, cần thành lập ban chỉ đạo thực hiện liên kết; sự phối hợp đồng bộ giữa các cấp, ngành để triển khai nhân rộng mô hình. Đặc biệt, điều quan trọng là tăng cường thông tin thị trường, tuyên truyền để doanh nghiệp, nông dân biết, thấy rõ lợi ích để tự nguyện tham gia. Đồng thời, triển khai các chính sách hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp thật cụ thể khi tham gia mô hình. Phải có sự ký kết rõ ràng giữa doanh nghiệp, nông dân, tạo sự ràng buộc nhau trong làm ăn, tránh tình trạng “bẻ chĩa” khi gặp giá lên, xuống bất thường.
Theo dự tính, ngành nông nghiệp sẽ xây dựng mới các mô hình trong chiến lược tái cơ cấu là tập trung một số sản phẩm chủ lực thí điểm như dừa, bưởi, chôm chôm và heo. Đối với dừa, thực hiện mô hình tại xã Hữu Định (Châu Thành) với diện tích 600ha; củng cố mô hình liên kết sản xuất, chế biến, tiêu thụ 2.000ha tại Giồng Trôm, trong đó Châu Bình 850ha, Hưng Lễ 830ha, Lương Quới 320ha; xây dựng mô hình liên kết 300ha chôm chôm ở Vĩnh Bình, Phú Phụng, Sơn Định (Chợ Lách). Mô hình 200ha bưởi tại Lương Hòa, Bình Hòa, Lương Quới (Giồng Trôm). Mô hình Tổ hợp tác, Hợp tác xã chăn nuôi heo ở Mỏ Cày Nam với tổng đàn 50.000 heo nái sinh sản theo hướng an toàn dịch bệnh, an toàn sinh học.
Để các mô hình trong liên kết đạt hiệu quả thật sự thì vai trò của các bên cũng sẽ được phân định rạch ròi, cụ thể. Trước tiên, nhà quản lý giữ vai trò “nhạc trưởng”, nhất là vai trò các cơ quan quản lý nhà nước phối hợp thực hiện, theo dõi, sơ kết, tổng kết; triển khai các chính sách hỗ trợ nông dân, doanh nghiệp; hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng các mô hình, xây dựng thương hiệu sản phẩm, thông tin thị trường; tập huấn bồi dưỡng kiến thức nông dân. Nhà nông tự nguyện tham gia, bỏ thói quen sản xuất tự phát, nhỏ lẻ để chuyển sang sản xuất theo luật, theo hợp đồng tiêu thụ, có kiến thức về khoa học kỹ thuật, thị trường, có kế hoạch trong sản xuất kinh doanh; đảm bảo nghiêm ngặt yêu cầu kỹ thuật sản xuất, ghi chép sổ sách; hiểu rõ các yêu cầu về mặt pháp lý khi đại diện ký kết thỏa thuận trách nhiệm và hợp đồng ký kết tiêu thụ sản phẩm với doanh nghiệp; tuyệt đối tránh tình trạng khi giá nông sản cao thì trì hoãn không thực hiện giao sản phẩm, khi giá thấp thì hối thúc thực hiện hợp đồng, phải thực hiện đúng các điều khoản đã ký kết. Nhà doanh nghiệp, có kế hoạch kinh doanh và mục tiêu rõ ràng trong liên kết, tổ chức khép kín từ khâu sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm; kế hoạch cả trước mắt, lâu dài cho thu mua, bao tiêu sản phẩm với giá thỏa thuận; quan tâm hỗ trợ con giống, phân bón, chế phẩm sinh học, thực hiện đúng cam kết về mua bán sản phẩm, giá bán, thời gian thu hồi nợ; chủ động phối hợp ký kết hợp đồng cung ứng vật tư, con giống cho nông dân, đảm bảo hài hòa lợi ích các bên; cung cấp thông tin thị trường về nhu cầu số lượng, chất lượng, xu hướng tiêu thụ sản phẩm, chia sẻ rủi ro với nông dân; hỗ trợ vốn và cho nông dân ghi nợ tiền vật tư, con giống trong quá trình sản xuất. Đặc biệt, Ngân hàng NN&PTNT quan tâm hỗ trợ, tạo điều kiện cho doanh nghiệp, nông dân tiếp cận vốn vay ưu đãi để phát triển sản xuất, kinh doanh theo qui mô lớn. Nhà khoa học, đồng hành cùng nông dân, doanh nghiệp trong suốt quá trình sản xuất; nghiên cứu tạo giống cây trồng, vật nuôi chất lượng, chuyển giao qui trình kỹ thuật mới cho nông dân.
Theo Sở NN&PTNT, sắp tới sẽ mời các doanh nghiệp cùng tham gia liên kết như: Công ty TNHH Chăn nuôi thức ăn gia súc Tấn Lợi, Công ty TNHH MTV Việt Nam kỹ nghệ súc sản-Vissan trong lĩnh vực chăn nuôi. Lĩnh vực trồng trọt sẽ có Công ty TNHH Hóa Nông Hợp Trí, doanh nghiệp Hương Miền Tây, doanh nghiệp thu mua Chánh Thu, Công ty TNHH Anh Em, Công ty Bảo vệ Thực vật An Giang, Công ty Cổ phần Xuất nhập khẩu Bến Tre, Công ty TNHH Yara Việt Nam. Đồng thời, triển khai đồng bộ 5 giải pháp về tuyên truyền, quản lý tổ chức sản xuất, chính sách và cơ chế, khoa học công nghệ, thị trường. Trong đó, 6 đơn vị có trách nhiệm cùng tham gia như Sở NN&PTNT, Công Thương, Khoa học và Công nghệ, Hội Nông dân, Liên minh Hợp tác xã, UBND các huyện, thành phố.