Quốc
hội nước ta còn là cơ quan thực hiện quyền giám sát tối cao và quyết định những
vấn đề quan trọng của đất nước. Kể từ khóa I đến nay (khóa XIII), đơn vị tỉnh
có 52 đại biểu tham gia 11 khóa Quốc hội (khóa IV và V, tỉnh không có đại biểu
tham gia). Để nhìn lại chặng đường lịch sử vẻ vang 70 năm của Quốc hội Việt
Nam, sự đóng góp của đại biểu đơn vị tỉnh nhà đối với những vấn đề quan trọng của
cả nước thời gian qua, Báo Đồng Khởi xin giới thiệu tổng quan về 13 khóa Quốc hội
Việt Nam.
* Khóa I từ 1946-1960, đánh dấu bước phát triển
nhảy vọt về thể chế dân chủ của nước Việt Nam mới, là Quốc hội của độc lập dân
tộc, thống nhất đất nước và đại đoàn kết toàn dân. Quốc hội khóa I có 403 đại
biểu, 12 kỳ họp. Đã thông qua Hiến pháp năm 1946 và Hiến pháp năm 1959, 11 đạo
luật, 50 nghị quyết, phê chuẩn Hiệp định Giơ-ne-vơ, thực hiện Cải cách ruộng đất
(kỳ họp thứ 3 vào năm 1953).
Tại Bến Tre, cuộc Tổng tuyển cử Quốc hội diễn
ra sớm, vào ngày 25-12-1945, với hơn 90% cử tri tham gia. Đơn vị tỉnh nhà có 5
đại biểu tham gia Quốc hội khóa đầu tiên gồm: Phạm Văn Bạch, Nguyễn Văn Cái, Đỗ
Phát Quang, Nguyễn Tẩu, Trần Quế Tử.
* Khóa II từ 1960-1964, được bầu ngày
8-5-1960, có 453 đại biểu, 8 kỳ họp và thông qua 6 đạo luật quan trọng. Trong
đó có Luật Tổ chức Quốc hội, bầu Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đơn vị tỉnh nhà có
3 đại biểu tham gia gồm: Phạm Văn Bạch, Nguyễn Văn Cái và Đỗ Phát Quang.
* Khóa III từ 1964-1971, được bầu ngày
26-4-1964, có 543 đại biểu, 7 kỳ họp. Quốc hội thông qua nhiều nghị quyết quan
trọng trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, đối ngoại, hành chính và nhân sự. Đồng
chí Trường Chinh được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đây
là thời kỳ cam go, ác liệt ở chiến trường miền Nam, Quốc hội có vai trò hết sức
quan trọng, vừa đảm bảo hiệu quả, hiệu lực của bộ máy nhà nước đang xây dựng chế
độ Xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, vừa đấu tranh giải phóng miền Nam, thống nhất đất
nước. Đơn vị tỉnh có 3 đại biểu của khóa II tham gia Quốc hội.
* Khóa IV từ 1971-1975, được bầu ngày
11-4-1971, có 420 đại biểu, 5 kỳ họp. Đồng chí Trường Chinh làm Chủ tịch Ủy ban
Thường vụ Quốc hội. Quốc hội thông qua nhiều nghị quyết về phương hướng, nhiệm
vụ, chỉ tiêu của kế hoạch khôi phục, phát triển kinh tế; thông qua Nghị quyết về
ký kết Hiệp định Pa-ri về chấm dứt chiến tranh, lập lại hòa bình ở Việt Nam.
Đây là giai đoạn chiến tranh khốc liệt ở miền Nam.
* Khóa V từ 1975-1976, được bầu ngày
6-4-1975, có 424 đại biểu. Đồng chí Trường Chinh tiếp tục giữ chức vụ Chủ tịch Ủy
ban Thường vụ Quốc hội. Khóa này chỉ có 2 kỳ họp nhưng quyết định nhiều vấn đề
quan trọng của đất nước. Đây là giai đoạn Quốc hội thể hiện là cơ quan quyền lực
cao nhất của khối đại đoàn kết toàn dân tộc khi tham gia phê chuẩn kết quả Hội
nghị hiệp thương chính trị thống nhất đất nước, quyết định Kế hoạch Nhà nước
năm 1976, mở ra thời kỳ độc lập, thống nhất, kiến thiết, xây dựng đất nước đi
lên theo chế độ XHCN.
v Khóa VI từ 1976-1981, được bầu ngày
25-4-1976, với 492 đại biểu. Đồng chí Trường Chinh giữ chức vụ Chủ tịch Ủy ban
Thường vụ Quốc hội và có 7 phó chủ tịch, tổng thư ký, 13 ủy viên chính thức. Với
7 kỳ họp, Quốc hội thông qua Nghị quyết về tên nước, Quốc kỳ, Quốc ca, Quốc huy
và tổ chức Nhà nước khi chưa có Hiến pháp mới. Ban hành 5 pháp lệnh và năm
1980, tại kỳ họp thứ 7, Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1980.
Đơn vị tỉnh có 9 đại biểu do đồng chí Võ Văn
Phẩm làm Trưởng đoàn.
* Khóa VII từ 1981-1987, bầu ngày 26-4-1981,
có 496 đại biểu. Quốc hội bầu ra Hội đồng Nhà nước do đồng chí Trường Chinh làm
Chủ tịch, 4 phó Chủ tịch, tổng thư ký. Bầu Luật sư Nguyễn Hữu Thọ giữ chức vụ
Chủ tịch Quốc hội và 9 phó chủ tịch. Quốc hội khóa này có 12 kỳ họp, ban hành
10 đạo luật, 35 nghị quyết. Quốc hội khóa VII bắt đầu công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
công tác lập pháp, tăng cường công tác giám sát và quyết định các vấn đề quan
trọng của đất nước. Xác định nguyên tắc và phương hướng xây dựng nền kinh tế
nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước
theo định hướng XHCN.
Đơn vị tỉnh có 9 đại biểu tham gia do đồng
chí Huỳnh Thanh Mua (1981-1983) và Dương Văn Ẩn (1983-1987) làm Trưởng đoàn.
* Khóa VIII từ 1987-1992, được bầu ngày
19-4-1987, có 496 đại biểu. Khóa này, đồng chí Lê Quang Đạo được bầu giữ chức vụ
Chủ tịch Quốc hội, đồng chí Võ Chí Công được bầu giữ chức Chủ tịch Hội đồng Nhà
nước. Diễn ra 11 kỳ họp, ban hành 2 bộ luật, 25 đạo luật. Riêng Hội đồng Nhà nước
ban hành 39 pháp lệnh. Tháng 4-1992, tại kỳ họp thứ 11, Quốc hội thông qua Hiến
pháp năm 1992 - đây là Hiến pháp của thời kỳ thật sự đổi mới, phù hợp với thực
tế, xu thế tiến bộ của thời đại, điều kiện và đặc điểm của đất nước. Đánh dấu sự
trưởng thành về trình độ lập hiến của nước ta, đáp ứng yêu cầu giai đoạn cách mạng
mới. Đơn vị tỉnh có 9 đại biểu do đồng chí Trương Vĩnh Trọng (1987-1989) và
Dương Văn Ẩn (1989-1992) làm Trưởng đoàn.
* Khóa IX từ 1992-1997, được bầu ngày
19-7-1992, có 395 đại biểu. Đồng chí Nông Đức Mạnh được bầu giữ chức vụ Chủ tịch
Quốc hội. Quốc hội khóa IX có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thể chế hóa
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên XHCN, chiến lược ổn định
và phát triển kinh tế - xã hội, đường lối đổi mới của Đảng theo Hiến pháp năm
1992. Quốc hội khóa này đã ban hành 36 luật, bộ luật và 43 pháp lệnh tạo cơ sở
pháp lý cho sự phát triển các thành phần kinh tế, đổi mới hệ thống chính trị,
phát huy quyền làm chủ của nhân dân, tăng cường công tác đối ngoại.
Đơn vị tỉnh có 6 đại biểu tham gia do đồng
chí Trần Văn Ngẫu làm Trưởng đoàn.
v Khóa X từ 1997-2002, được bầu ngày
20-7-1997, có 450 đại biểu. Đồng chí Nông Đức Mạnh là Chủ tịch Quốc hội. Tại kỳ
họp thứ 9, đồng chí Nguyễn Văn An được bầu là Chủ tịch Quốc hội. Khóa này, Quốc
hội đã ban hành 32 luật, 39 pháp lệnh; chủ trương cải cách bộ máy nhà nước, đổi
mới hệ thống chính trị, nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước, phát huy dân chủ,
xây dựng nhà nước pháp quyền XHCN của dân, do dân, vì dân.
Đơn vị tỉnh có 7 đại biểu do đồng chí Trần
Văn Truyền làm Trưởng đoàn.
* Khóa XI từ 2002-2007, được bầu ngày
19-5-2002, có 498 đại biểu. Đồng chí Nguyễn Văn An được bầu giữ chức vụ Chủ tịch
Quốc hội. Tại kỳ họp thứ 9, đồng chí Nguyễn Phú Trọng được bầu giữ chức vụ Chủ
tịch Quốc hội nhiệm kỳ này. Quốc hội đã thông qua 84 luật, bộ luật và 15 nghị
quyết. Quốc hội đã biểu quyết nhiều vấn đề quan trọng của đất nước trong thời kỳ
công nghiệp hóa - hiện đại hóa như: phân bổ ngân sách Trung ương, xây dựng nhà
máy lọc dầu Dung Quất…
Đơn vị tỉnh có 8 đại biểu do đồng chí Trần Văn Cồn làm Trưởng đoàn.
* Khóa XII từ 2007-2011, được bầu ngày
20-5-2007, có 493 đại biểu, đồng chí Nguyễn Phú Trọng giữ chức vụ Chủ tịch Quốc
hội. Trong nhiệm kỳ này, Quốc hội đã thông qua 66 luật, 14 pháp lệnh. Đã biểu
quyết nhiều vấn đề quan trọng như: xây dựng Nhà máy thủy điện Lai Châu, Nhà máy
điện hạt nhân Ninh Thuận, điều chỉnh địa giới hành chính mở rộng Thủ đô Hà Nội.
Đơn vị tỉnh có 6 đại biểu do đồng chí Nguyễn
Thị Thanh Hà làm Trưởng đoàn.
* Khóa XIII từ 2011-2016, được bầu ngày 22-5-2011,
có 500 đại biểu. Đồng chí Nguyễn Sinh Hùng được bầu giữ chức vụ Chủ tịch Quốc hội,
có 4 phó chủ tịch và 13 thành viên Ủy ban Ban Thường vụ. Quốc hội khóa này đã
ban hành Hiến pháp năm 2013, thông qua 84 luật, bộ luật với các luật quan trọng
như Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Tòa án nhân
dân, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức chính quyền địa phương,
Luật Bầu cử đại biểu Quốc hội và Hội đồng nhân dân, Luật Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam…. Quốc hội khóa XIII được cho là có nhiều đổi mới nhất, như tại kỳ họp thứ
5, Quốc hội tiến hành lấy phiếu tín nhiệm đối với những người giữ chức vụ do Quốc
hội bầu hoặc phê chuẩn.
Đơn vị tỉnh có 7 đại biểu do đồng chí Nguyễn
Văn Hiếu (2011-2013) và Nguyễn Thị Phương Đào (2013-2016) làm Trưởng đoàn.