|
Việt Nam chuyển đổi từ nông nghiệp sang công nghiệp (Ảnh: Britannica) |
Trải qua nhiều thập niên cam kết, nỗ lực và tiếp tục cải cách, chính sách Đổi Mới (nghĩa là tái thiết) mà Chính phủ Việt Nam thực hiện từ năm 1986 đã khiến Việt Nam trở thành một trong những thị trường mới nổi năng động nhất trên thế giới, bài viết của tác giả Cheah King Yoong đăng trên Malaysia Star.
Tăng trưởng GDP của Việt Nam hy vọng đạt 8,5% năm 2007. Việt Nam là nước có nền kinh tế tăng trưởng nhanh thứ hai ở châu Á (sau Trung Quốc). Tăng trưởng GDP theo dự báo chính thức của chính phủ đạt 8,5% -10% trong năm 2008.
Việt Nam cũng là một trong những quốc gia thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài (FDI) lớn nhất thế giới. Mỹ, Hàn Quốc, Nhật Bản và Hong Kong là những nhà cung cấp FDI lớn nhất với Việt Nam.
Vào thời điểm khi mà Trung Quốc và Ấn Độ đang được quốc tế chú ý, cùng với khả năng suy thoái của nền kinh tế Mỹ, một số người hoài nghi đưa ra câu hỏi rằng, liệu Việt Nam sẽ duy trì được mức tăng trưởng của mình và trở thành một con hổ ở châu Á? Tôi xin đưa ra một số nhân tố chính như sau.
- Nhân khẩu học: Một trong những động lực chính cho sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam là lực lượng lao động trẻ, có học thức. Việt Nam với số dân 85 triệu người xếp thứ 13 trên thế giới về điều kiện này.
Làn sóng baby sau năm 1975 đã tạo ra lực lượng dân số trẻ đáng kinh ngạc với độ tuổi trung bình khoảng 25 tuổi. Tôi đã từng tiếp xúc với nhiều người Việt Nam và nhận thấy, họ rất hăm hở làm việc, ham học hỏi kiến thức và khá linh động. Hơn nữa, thế hệ trẻ này nói chung ưa thích kinh doanh. Nhiều người tôi gặp ở các vùng miền Việt Nam đều nói họ muốn có công ty riêng trong vài năm tới.
- Hướng tới Việt Nam: Lực lượng lao động trẻ dồi dào, giá nhân công rẻ, cộng với những chính sách khuyến khích của chính phủ để thu hút FDI, đã giúp Việt Nam trở thành một trung tâm sản xuất hấp dẫn trong khu vực. Nhiều hãng sản xuất có sẵn cơ sở ở Trung Quốc nay lại hăm hở với chiến lược ’’Trung Quốc cộng 1’’ - khi hướng tới Việt Nam như một cách thức đa dạng hóa sản xuất và kinh doanh.
- Hưởng lợi từ sự bùng nổ hàng hóa: Khác với một số nền kinh tế mới nổi, Việt Nam là nhà sản xuất dầu lớn thứ ba châu Á và đang hưởng lợi bởi giá dầu tăng cao. Đất nước này cũng là nhà xuất khẩu hạt tiêu lớn nhất thế giới, xuất khẩu gạo và cà phê thứ hai thế giới. Các sản phẩm xuất khẩu dựa trên nguồn tài nguyên đã có sự phát triển ấn tượng trong vài năm gần đây và tạo ra sự bùng nổ hàng hóa.
Trong năm 2006, hàng hóa và sản phẩm nghề cá tiếp lục là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam với giá trị chung chiếm 26,7% GDP cả nước.
- Động lực từ các sản phẩm xuất khẩu không dựa trên nguồn tài nguyên: FDI đang tăng mạnh cùng với chiến lược ’’Trung Quốc cộng 1’’ của các nhà sản xuất như đã đề cập phía trên, các sản phẩm xuất khẩu không dựa trên nguồn tài nguyên như may mặc, da giày và đồ gỗ... đã trở thành mặt hàng xuất khẩu chủ lực thu ngoại tệ tron