Tập thể Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy tại buổi làm việc với Thường trực Tỉnh ủy về công tác kiểm tra, giám sát (tháng 5-2023). Ảnh: H. Hiệp
Thực hiện tốt phương châm kiểm tra, giám sát
“Sau đại hội, các cấp ủy đã tập trung triển khai học tập, quán triệt nghị quyết, quy định của Đảng, nhất là nghị quyết về xây dựng, chỉnh đốn Đảng, chỉ thị phối hợp KT, GS; chương trình hành động thực hiện chiến lược công tác KT, GS của Đảng; chương trình thực hiện đồng bộ các giải pháp kéo giảm đảng viên vi phạm. Đồng thời, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện tốt phương châm “Lãnh đạo nội dung gì thì KT, GS nội dung đó” một cách toàn diện, dân chủ, khách quan, thận trọng, chặt chẽ.
Công tác KT, GS tiếp tục đẩy mạnh, có nhiều chuyển biến tích cực, giữ vững kỷ cương, kỷ luật của Đảng. Thực hiện đồng bộ các giải pháp phòng ngừa vi phạm đạt kết quả; cấp ủy, ủy ban kiểm tra (UBKT) các cấp đã KT 21.825 đảng viên, 1.451 TCĐ; GS 2.089 đảng viên, 1.746 TCĐ. Nội dung chấp hành nghị quyết, chỉ thị, quy chế làm việc, nguyên tắc tập trung dân chủ, đoàn kết nội bộ, chức trách, nhiệm vụ; chính sách, pháp luật của Nhà nước. Qua KT, GS kết luận hầu hết đảng viên, TCĐ chấp hành tốt quy định của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
Tổ chức hội nghị tọa đàm nhằm tìm ra nguyên nhân cụ thể và giải pháp tích cực; thực hiện hiệu quả các mặt công tác xây dựng Đảng về tư tưởng, chính trị, đạo đức, tổ chức bộ máy, KT, GS, quan hệ Đảng với nhân dân, phòng chống tham nhũng, phương thức lãnh đạo của Đảng để chủ động phòng ngừa vi phạm căn cơ, có chiều sâu, xây dựng mô hình “Nói không với đảng viên vi phạm”, kéo giảm tỷ lệ đảng viên vi phạm kỷ luật, góp phần xây dựng chi bộ hạt nhân chính trị lãnh đạo ở cơ sở đạt danh hiệu vững mạnh toàn diện theo chỉ tiêu nghị quyết đại hội. Cấp ủy, UBKT các cấp đã thi hành kỷ luật 371 đảng viên, giảm 6,3% so với cùng kỳ. Nội dung vi phạm chủ yếu thiếu trách nhiệm, buông lỏng lãnh đạo, vi phạm những điều đảng viên không được làm, phẩm chất đạo đức, lối sống, tham nhũng, tiêu cực… Đảng viên vi phạm là cán bộ thuộc diện cấp tỉnh, huyện quản lý chiếm 13,7%, cơ sở chiếm 86%.
Tuy nhiên, chất lượng sinh hoạt chi bộ cũng như công tác quản lý đảng viên một số nơi còn chưa tốt; tinh thần tự trọng, tự giác của đảng viên chưa cao, thiếu tu dưỡng rèn luyện đạo đức, lối sống, tự soi, tự sửa để khắc phục kịp thời khuyết điểm, hạn chế; tỷ lệ kéo giảm đảng viên vi phạm chưa nhiều, không đồng đều giữa các địa phương, đơn vị. Nguyên nhân chủ yếu là do công tác lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ KT, GS của một số cấp ủy, TCĐ, cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy chưa được quan tâm đúng mức, thiếu toàn diện; việc tự KT, phát hiện và xử lý vi phạm nhiều nơi vẫn là khâu yếu, đảng viên vi phạm nhưng chậm phát hiện hoặc xử lý chưa kịp thời; nội dung KT, GS còn thiếu trọng tâm, trọng điểm, chưa chú trọng vào các lĩnh vực dễ phát sinh vi phạm, tham nhũng, tiêu cực...
Giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng
Để góp phần thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội XI Đảng bộ tỉnh và chỉ tiêu kéo giảm 10% đảng viên vi phạm kỷ luật, thiết nghĩ các cấp ủy, TCĐ, UBKT, người đứng đầu cấp ủy, cơ quan, UBKT cần quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện đồng bộ, quyết liệt các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm.
Đó là tiếp tục thực hiện có hiệu quả các nhóm nhiệm vụ, giải pháp thường xuyên, nhóm phòng ngừa vi phạm và nhóm cần làm ngay trong Chương trình hành động của Ban Thường vụ Tỉnh ủy về giải pháp kéo giảm đảng viên vi phạm kỷ luật, gắn với nghiêm túc thực hiện Thông báo của Bộ Chính trị về chủ trương bố trí công tác đối với cán bộ sau khi bị kỷ luật; tạo nhận thức mới, nhằm răn đe, giáo dục, thuyết phục đảng viên vi phạm và khi có dấu hiệu vi phạm để không vi phạm.
Đổi mới việc ban hành văn bản KT, GS của Đảng bảo đảm đủ cơ sở để hoạt động hiệu lực, khắc phục triệt để tính chủ quan, kết luận chung chung khó thực hiện. Chủ động dự báo, thực hiện đồng bộ các nhiệm vụ, giải pháp về tư tưởng chính trị, tổ chức cán bộ, xây dựng đạo đức, KT, GS của Đảng và thực hiện nghiêm các quy định làm cho đảng viên không muốn vi phạm, không thể vi phạm, không dám vi phạm. Nâng cao chất lượng GS thường xuyên, GS chuyên đề, KT chấp hành, KT khi có dấu hiệu vi phạm để chủ động xử lý kịp thời, hiệu quả.
Nâng cao chất lượng lãnh đạo, chỉ đạo và thực hiện nhiệm vụ KT, GS, thi hành kỷ luật đảng của cấp ủy, TCĐ, cơ quan tham mưu, giúp việc cấp ủy, UBKT các cấp bảo đảm đúng theo quy định. Tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo TCĐ cấp dưới, đảng viên thực hiện nghiêm túc công tác KT, GS. Các cơ quan tham mưu giúp việc cấp ủy, đảng đoàn, ban cán sự đảng thường xuyên lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ KT, GS, bảo đảm thực chất. UBKT các cấp tập trung KT TCĐ và đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm, coi đây là nhiệm vụ trọng tâm, thường xuyên.
Đổi mới cách lựa chọn đối tượng, nội dung KT, GS sát với yêu cầu từng đối tượng đảng viên ở cấp cơ sở, huyện, tỉnh quản lý. Tập trung KT, GS các lĩnh vực trọng điểm, nhạy cảm, dễ phát sinh vi phạm như: quản lý đất đai, đầu tư công, tư pháp, y tế, giáo dục... KT, GS, xử lý trách nhiệm tập thể, cá nhân người đứng đầu do buông lỏng lãnh đạo, quản lý, thiếu KT, GS, để nhiều đảng viên vi phạm hoặc chậm phát hiện, xử lý không kịp thời.
Thực hiện tốt quy chế phối hợp giữa UBKT Tỉnh ủy với các cơ quan có liên quan theo Quyết định của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. Coi trọng việc trao đổi, cung cấp thông tin giữa cấp ủy, UBKT với các TCĐ, Nhà nước, MTTQ Việt Nam, các tổ chức chính trị - xã hội.
Tập trung tuyên truyền, phổ biến công tác KT, GS, thi hành kỷ luật trong Đảng. Công khai kết quả sau các kỳ họp UBKT, nhất là kết quả xử lý vi phạm trên phương tiện thông tin đại chúng, để tăng cường sự GS của cán bộ, đảng viên và nhân dân; đồng thời cũng nhằm răn đe, cảnh tỉnh, giáo dục, giữ nghiêm kỷ cương, kỷ luật của Đảng.
Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan UBKT đủ số lượng, bảo đảm nâng cao chất lượng, tương xứng với chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn được giao. Xây dựng đội ngũ cán bộ KT gương mẫu, giữ gìn phẩm chất đạo đức, lối sống, giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, tận tụy, trách nhiệm trong công việc. Đẩy mạnh luân chuyển cán bộ KT để rèn luyện, thử thách trong thực tiễn, nhằm tạo nguồn cán bộ cho nhiệm kỳ tới và tầm nhìn xa hơn đến năm 2030 theo Kết luận số 34-KL/TW của Bộ Chính trị, Kết luận số 23-KL/TW của Ban Bí thư, Đề án số 05-ĐA/UBKTTW của UBKT Trung ương, Kế hoạch số 136-KH/TU của Ban Thường vụ Tỉnh ủy. |
Hồ Tính Kiệp
Phó chủ nhiệm Thường trực Ủy ban Kiểm tra Tỉnh ủy