Người chúng tôi muốn kể là cô Dương Thị Chẩn (bí danh Năm
Hòa) ở xã Lương Hòa, huyện Giồng Trôm - người nữ giao liên thân tín của Nữ tướng
Nguyễn Thị Định ngày ấy. Với dáng người nhỏ bé nhưng ít ai nghĩ rằng cô đã có
“thâm niên 16 năm” chốn lao tù, đi qua 9 nhà giam ở đất liền và nhà tù Côn Đảo
là điểm đến cuối cùng, nơi được gọi là “địa ngục trần gian”.
Tôi luyện ý chí trong
gian khó
Đến thăm cô vào một ngày trung tuần tháng 7, căn nhà xưa
nằm sau hàng chậu mai vàng trên khoảng
sân rộng, ấn tượng ngay cái nhìn đầu tiên là bức ảnh cô Ba Định với khăn rằn quấn
cổ, nụ cười hiền được treo trang trọng trong gian phòng thờ. “Sinh thời, chị Ba
thương cô lắm, mỗi lần về quê là chị ghé qua. Từ ngoài ngõ là chị đã réo: Lẹ
ơi! Lẹ hỡi! “Lẹ” là tên chị Ba đặt cho cô. Vậy mà gọi riết thành biệt danh, đi
tới đâu chị Ba cũng “Lẹ”. Nghĩ mà nhớ hoài …”, cô Năm mở đầu câu chuyện với
chúng tôi.
Không đợi nói gì thêm, cô Năm trầm giọng, khoác vội chiếc
áo len sờn cũ lên người và bảo: “Những vết thương bị tra tấn khi ở tù, giờ cứ hễ
trở trời cô thấy ớn lạnh”. Nói đoạn, nhấp ngụm trà, cô đưa mắt nhìn xa xăm rồi
ngậm ngùi. “16 năm đón Tết trong tù cũng là ngần ấy thời gian tụi cô được trui
rèn và rồi trưởng thành” - cô Năm nói.
Có lẽ, so với nhiều chị em phụ nữ hoạt động cách mạng
cùng thời, hiếm ai trải qua nhiều trại giam đến thế. Ngày bọn địch đày cô ra
Côn Đảo, bước xuống thuyền, chúng bảo: “Đấy, nhà tù Côn Đảo đấy, thử mấy bà chịu
nổi đến đâu”. Đáp lại sự hung hãn, hăm dọa của kẻ thù, cô cùng đồng đội dõng dạc:
“Côn Đảo hay đất liền cũng là đất nước của chúng tôi. Có đi đến đâu ý chí kiên
định về ngày mai tất thắng vẫn thế”.
Cô Năm Hòa ngày đó bắt đầu làm cách mạng ở cái tuổi đẹp
nhất của đời người. 19 tuổi, cô đã gác lại những mơ ước để lao vào cuộc chiến.
Bông hoa đồng nội với vẻ đẹp thùy mị, dịu dàng của vùng đất Lương Hòa Dương Thị
Chẩn, một lần nữa lại làm rạng danh “vùng đất thép”. Cô kể: “Những ngày đầu
tham gia cách mạng, mỗi lần nghe giao nhiệm vụ cũng lo lắm. Nhưng hằng ngày cứ
nhìn sự tàn độc của giặc, chúng bắt bớ, càn quét, đàn áp bà con, vậy là lòng
căm thù giặc cứ thế dâng trào”.
Quyết theo các anh làm bộ đội, cô được giao nhiệm vụ nắm
tình hình nội bộ bọn ngụy quyền, làm giao liên truyền tin bí mật từ cô Ba Định
với các vùng kháng chiến. Trong một lần đưa thư mật để truyền mật lệnh của sở
chỉ huy, cô Năm Hòa bị địch bắt tại Bình Đại. Nhớ lại lần bị bắt ấy, cô Năm bồi
hồi: “Xác định làm cách mạng là phải hy sinh, mất mát, thế nhưng lần bị bắt này
chính thức mở màn cho 16 năm cuộc sống “địa ngục trần gian”.
Ký ức tự hào
Vào nhà giam ở cái tuổi đôi mươi, không đòn tra tấn tàn độc
nào của kẻ thù mà cô Năm chưa trải qua.
“Nhớ sao hết con! Nhưng ấn tượng nhất là đòn tra tấn ngay khi lên đảo.
Chúng đè cô nằm xuống, trói 2 tay vào bàn, cột 2 chân, 2 tên đè đầu, 4 tên thay
nhau dùng gậy đánh vào bàn chân. Mỗi cái đánh của chúng cô như vỡ cả ruột gan,
thốn tới đỉnh đầu. Cô ngất đi tỉnh lại mấy lần nhưng chúng vẫn không khai thác
được gì. Thua cuộc, chúng thả cô về buồng. Như một xác chết, 2 ngày sau chân cô
sưng to, mấy đầu ngón chân như mấy trái chuối xiêm, không cử động được, thậm
chí tiểu ra máu. Gian khổ vậy chứ mọi người đoàn kết lắm. Mấy chị xúm lại chăm
sóc cô. 4 chị đỡ cô lên, 2 chị gội đầu. Mấy anh thì chườm dầu lửa, muối. Nhờ thế
mà cô không bị tật, nếu không cô liệt 2 chân rồi”, cô Năm nhớ lại.
Cô kể, ngày đó, làm cách mạng bị bắt ra đảo nếu chịu chào
cờ giặc, làm theo nội quy của chúng thì chỉ bị giam ở những buồng giam lỏng,
chúng mở cửa để được đi ra, đi vào, được ăn rau, ăn cá. Còn chống lại chúng thì
bị nhốt vào hầm đá, bị phơi nắng, bị tra tấn, và đẩy vào chuồng cọp. Mỗi khi bọn
giặc bắt cô lên tra tấn, ai cũng hồi hộp, sợ rằng đòn roi giặc sẽ làm cô lay
chuyển. Nhưng với ý chí và niềm tin, cô quyết không khai, một lòng theo Đảng, một
lòng vì nước, vì bà con quê mình. Nếu có hy sinh tại đây, là mình cũng đã hoàn
thành nhiệm vụ.
Hơn 40 năm đất nước hòa bình, người chiến sĩ cộng sản
kiên trung ngày ấy sức khỏe yếu nhiều, mắt mờ, chân mỏi. Kỷ niệm về thời mưa
bom, bão đạn khi nhớ khi quên nhưng được trò chuyện với cô, tận sâu thẳm lòng
tôi vang vọng những vần thơ tràn đầy niềm tin và hy vọng của cô:
“Vào lửa thấp cao
biết tuổi vàng
Nghiêng mình kính phục chí hiên ngang
Bao ngày cầm cố không sờn dạ
Những trận mưa đòn chẳng núng gan
Khí tiết nêu cao trong nghịch cảnh
Thử xem sắt đá có bền gan
Ngày càng thắng lợi càng gian khổ
Vào lửa thấp cao biết tuổi vàng”.
Cô Dương Thị Chẩn, sinh năm
1931, tham gia cách mạng khi vừa tuổi đôi mươi. Hoạt động trong thời gian 4 -
5 năm thì cô bị bắt. Trải qua 9 nhà giam từ trại giam Bình Đại, Kiến Hòa, Định
Tường - Mỹ Tho, Phú Lợi, Chí Hòa, Hố Nai… đến Côn Đảo. 16 năm tù đày đến khi
Hiệp định Paris ký kết, cô mới được trao trả về. Sau thời gian an dưỡng, cô
tiếp tục con đường cách mạng cho đến khi đất nước giải phóng. Cô tham gia
công tác tại Phòng Cứu trợ thuộc Sở Lao động - Thương binh và Xã hội ngày nay
với chức vụ Trưởng phòng cho đến năm 1987 nghỉ hưu.
|