Còn nhiều bất cập

10/05/2015 - 16:54
Trưng bày các sản phẩm chế biến từ dừa của các doanh nghiệp Bến Tre. Ảnh: H.hiệp

Từ năm 2013, khi Chính phủ ban hành Nghị quyết số 01 và 02 về một số giải pháp tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường, giải quyết nợ xấu, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đã có nhiều điều chỉnh mang tính đột phá nhằm tháo gỡ phần nào khó khăn cho doanh nghiệp (DN). Trong đó, thiết thực nhất là việc hạ mặt bằng lãi suất tín dụng, đơn giản hóa thủ tục vay vốn.

Khó tiếp cận nguồn vốn

Đối tượng được hưởng ưu đãi nhiều nhất từ các chính sách tín dụng này là khu vực nông nghiệp, nông thôn, DN vừa và nhỏ, DN sản xuất hàng xuất khẩu, DN công nghiệp hỗ trợ. Riêng đối với các DN sản xuất và xuất khẩu do chịu ảnh hưởng lâu dài từ khủng hoảng kinh tế thế giới, nhiều DN vẫn chưa vượt qua khó khăn. Trong giai đoạn này, NHNN Việt Nam, các ngân hàng thương mại trên địa bàn đã rất nỗ lực trong việc chia sẻ khó khăn với các DN; chấp hành nghiêm lãi suất huy động và cho vay. Điển hình là “Chương trình kết nối ngân hàng - DN” với đối tượng ưu tiên là DN vừa và nhỏ, thu mua chế biến hàng nông sản, xuất khẩu, chăn nuôi, lương thực thực phẩm. Chương trình đã phát huy tác dụng là cầu nối giữa ngân hàng và DN, giúp DN tháo gỡ khó khăn cho sản xuất kinh doanh, hỗ trợ thị trường.

Mặc dù có nhiều chuyển biến tích cực nhưng quá trình tiếp cận nguồn vốn ngân hàng để phát triển các sản phẩm xuất khẩu vẫn còn một số khó khăn. Tuy lãi suất cho vay có xu hướng giảm, nguồn vốn ngân hàng dồi dào, nhưng một bộ phận không nhỏ những hộ gia đình, DN chưa được tiếp cận nguồn vốn, với nhiều nguyên nhân.

Ngành Nông nghiệp vốn chịu rất nhiều rủi ro trong quá trình sản xuất như thiên tai, dịch bệnh, mất mùa. Ngoài ra, thị trường nông sản cũng rất bấp bênh có khả năng khiến người sản xuất thua lỗ, thậm chí mất trắng. Do đặc điểm của các dự án trong ngành Nông nghiệp thường có tính rủi ro cao nên tài sản thế chấp của người nông dân thường có giá trị thấp. Vì vậy, không chỉ ngân hàng e dè trong thẩm định cho vay mà các hộ nông dân cũng không dám mạo hiểm để đầu tư. Do đó, Chính phủ cần sớm hoàn thiện và nhân rộng loại hình bảo hiểm nông nghiệp như là một công cụ phòng ngừa, hạn chế rủi ro để người sản xuất và ngân hàng mạnh dạn hơn trong việc đầu tư phát triển lĩnh vực nông nghiệp.

Hầu hết hộ gia đình sản xuất nông nghiệp ở vùng sâu, vùng xa không thuận tiện khi giao dịch với ngân hàng do mạng lưới ngân hàng ở những vùng này chưa được bao phủ. Vì vậy, NHNN nên tạo điều kiện để các ngân hàng thương mại mở rộng mạng lưới tại các vùng sâu, vùng xa nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu vốn cho phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Đồng thời, NHNN cùng các ngân hàng thương mại cần nghiên cứu, phối hợp với các cơ quan liên quan ban hành chính sách, quy trình cho vay riêng phù hợp với đặc thù của sản xuất nông nghiệp, giảm thiểu các thủ tục, hồ sơ vay vốn.

Lãi suất còn cao

Người dân vay vốn phải có tài sản đảm bảo như bất động sản, máy móc thiết bị, hàng tồn kho. Vấn đề định giá tài sản hiện nay cũng còn nhiều bất cập. Việc định giá bất động sản theo khung giá của UBND tỉnh là chưa phù hợp với giá trị thực tế chuyển nhượng trên thị trường. Từ đó, gây thiệt hại lớn cho người đi vay vốn. Đối với máy móc thiết bị, nhà xưởng phục vụ sản xuất có giá trị đầu tư rất cao nhưng vì mang tính đặc thù, chuyên dùng nên ngân hàng cũng không mặn mà. Một số DN có xếp hạng cao theo hệ thống xếp hạng tín dụng của ngân hàng có thể được áp dụng chính sách tín dụng một phần không đảm bảo nhưng nhìn chung vẫn không đáp ứng được nhu cầu vốn của DN. Trước thực tế trên, rất mong ngân hàng tăng cường tín chấp và các loại tài sản đảm bảo khác như hàng tồn kho, các khoản phải thu.

Lãi suất cho vay của ngân hàng Việt Nam hiện nay còn cao so với khu vực và quốc tế, đặc biệt là lãi suất vay trung dài hạn (hiện nay là 10%/năm). Do đó, các DN Việt Nam khó cạnh tranh được với các DN FDI, đặc biệt là các DN cùng ngành nghề. Hiện nay, mức trần lãi suất cho vay bằng VNĐ đối với các đối tượng ưu tiên theo Nghị định số 41 là 7%/năm, nhưng lại chưa có quy định trần lãi suất cho vay USD đối với các đối tượng ưu tiên này, hiện lãi suất cho vay còn rất cao từ 4 - 6%/năm đối với vay ngắn hạn. Trong khi đó, phần lớn vốn vay của các DN xuất khẩu bằng USD. Đề nghị NHNN hạ mức trần lãi suất cho vay USD ở mức 3%/năm, để DN có thể giảm chi phí, tăng sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.

Các thủ tục về công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm với cơ quan quản lý tài nguyên môi trường khá rườm rà, gây mất thời gian, nhất là các tài sản thuộc sở hữu công ty. Vì vậy, đề nghị NHNN phối hợp với cơ quan công chứng, đăng ký giao dịch bảo đảm nhằm tránh phiền hà cho khách hàng.

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN