Trong bối cảnh việc sử dụng tài nguyên nước và tài nguyên thiên nhiên lưu vực sông Mê Công phục vụ cho mục tiêu phát triển kinh tế ngày một gia tăng. Đặc biệt, hoạt động phát triển thủy điện trên dòng chính, các hoạt động chuyển nước phục vụ tưới phát triển nông nghiệp với với những dự án có quy mô rất lớn, có thể dẫn đến những ảnh hưởng bất lợi với tài nguyên và môi trường, xã hội.
Các nước thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc tế đã nhất trí tiến hành nghiên cứu về quản lý và phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công.
Mục tiêu của nghiên cứu là: xây dựng thêm các bằng chứng khoa học đáng tin cậy về các tác động tích cực và tiêu cực của quá trình sử dụng tài nguyên nước lên các yếu tố môi trường, kinh tế và xã hội; kết hợp các kết quả của nghiên cứu vào cơ sở kiến thức của MRC để đẩy mạnh quá trình lập kế hoạch phát triển lưu vực; tăng cường năng lực và đảm bảo chuyển giao công nghệ cho các Ủy ban sông Mê Công quốc gia.
Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên ( giữa) tham dự và phát biểu tại Hội thảo.
Ông Trương Hồng Tiến, Giám đốc Vụ Môi trường, Ban Thư ký Ủy hội sông Mê Công quốc tế đánh giá: Nghiên cứu đã đạt được những mục tiêu đề ra, hoàn thành nhiệm vụ các quốc gia thành viên giao phó và nghiên cứu này cũng được xem như một thành công trong nhiều lĩnh vực, xây dựng các quy trình, công cụ và tập hợp dữ liệu có thể sử dụng để định hướng phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công trong tương lai.
Trong đó, các kết quả chính của nghiên cứu bao gồm: đánh giá kết quả tổng hợp và tích lũy từ các dự án phát triển tài nguyên nước hiện tại và dự kiến ở hạ lưu sông Mê Công; đưa ra các khuyến nghị và các thông điệp quan trọng để các nước thành viên tham khảo trong quá trình ra quyết định ở quốc gia và trong các quyết định chung của Ủy hội sông Mê Công quốc tế; củng cố năng lực cho đội ngũ nhân viên kỹ thuật của các nước thành viên; xây dựng phương pháp và công cụ đánh giá tác động tổng hợp cho hạ lưu lưu vực. Việc nâng cao năng lực này sẽ giúp Ban thư ký Ủy hội và các thành viên trong việc lập kế hoạch, phát triển chung, quản lý và giám sát các nguồn tài nguyên nước ở hạ lưu lưu vực.
Ông Phạm Tuấn Phan - Giám đốc điều hành, Ban Thư ký Ủy hội sông Mê Công quốc tế khẳng định: Thành công lớn nhất của nghiên cứu chính là củng cố tăng cường năng lực để từ đó nêu bật các tác động tích cực và tiêu cực của các dự án phát triển tài nguyên nước vùng hạ lưu vực, đánh giá bằng các chỉ tiêu bền vững được thể hiện trong các chỉ số môi trường, kinh tế xã hội do các quốc gia thành viên lực chọn. Các dự án phát triển bao gồm các dự án thủy điện dòng chính và các các dự án thủy điện hiện đã có và dự án thủy điện nằm trong quy hoạch, mở rộng nông nghiệp và các công trình thủy lợi, sử dụng nước cho sinh hoạt gia đình và sản xuất công nghiệp, giao thông thủy và phòng chống lũ. Khung đánh giá do nhóm nghiên cứu xây dựng cho phép đánh giá có hệ thống các tác động tích cực và tiêu cực liên quan đến các kế hoạch phát triển gắn liền với tài nguyên nước, đồng thời hỗ trợ các thành viên trong quá trình ra quyết định về tương lai vùng hạ lưu vực.
Theo yêu cầu của các quốc gia thành viên, các kết quả của nghiên cứu phải có sự tham vấn với các cơ quan quản lý và nghiên cứu có liên quan tới đông đảo cộng đồng các nhà khoa học, các chuyên gia độc lập để có thể hoàn thiện các kết quả nghiên cứu, đồng thời chỉ ra những khiếm khuyết, thiếu sót và những vấn đề cần tiếp tục thực hiện trong tương lai.
Giáo sư Nguyễn Ngọc Trân trình bày ý kiến góp ý tại Hội thảo.
Nhiều chuyên gia, nhà khoa học, quản lý đã có nhiều ý kiến đóng góp đối với kết quả “Nghiên cứu chung về quản lý và phát triển bền vững lưu vực sông Mê Công bao gồm tác động của các dự án thủy điện dòng chính” về phương pháp nghiên cứu, các số liệu công bố, cũng như các mục tiêu đưa ra của Nghiên cứu…
Thứ trưởng Bộ TN&MT Trần Quý Kiên cho rằng: Dòng sông Mê Công đã và đang mang lại rất nhiều lợi ích cho các quốc gia ven sông là nguồn nước quý giá phục vụ dân sinh, canh tác nông nghiệp, nguồn lợi thủy sản đánh bắt với giá trị kinh tế lớn, và còn là sinh cảnh của rất nhiều loài sinh vật quý hiếm, đặc hữu, tạo nên sự đa dạng sinh học phong phú vào bậc nhất trên thế giới. Đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam nằm cuối cùng của lưu vực sông Mê Công, được hưởng lợi của phù sa màu mỡ do con sông bồi đắp, là nguồn dinh dưỡng dồi dào phục vụ sản xuất nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, tạo sinh kế cho hàng triệu người dân.
Do vậy, việc bảo vệ và giữ gìn nguồn tài nguyên nước và tài nguyên thiên nhiên của sông Mê Công là mối quan tâm hàng đầu và cũng là ưu tiên hàng đầu của các quốc gia thành viên Ủy hội sông Mê Công quốc tế, đặc biệt là Việt Nam.
Toàn cảnh Hội thảo.
Theo Thứ trưởng Trần Quý Kiên, thời gian qua, Chính phủ và các Bộ ngành rất quan tâm đến vấn đề phát triển của ĐBSCL trong bối cảnh tình trạng biến đổi khí hậu ngày càng diễn biến phức tạp và những thách thức trong chia sẻ nguồn nước của sông Mê Công. Đặc biệt, lần đầu tiên Việt Nam tổ Hội nghị phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu ( tháng 9-2017). Ngay sau đó, Chính phủ đã ban hành Nghị quyết 120 về phát triển bền vững ĐBSCL thích ứng với biến đổi khí hậu. Chính phủ đã giao Bộ TN&MT xây dựng Quy hoạch tổng thể để để thực hiện Nghị quyết 120, trong đó đặt ra nhiều kỳ vọng các mục tiêu phải đạt được đến năm 2020, đến năm 2030 và tầm nhìn đến năm 2050
*Theo Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, mùa khô và đầu mùa lũ năm 2019, lưu vực sông Mê Công trải qua một giai đoạn thiếu mưa với tổng lượng mưa trung bình trên lưu vực chỉ đạt khoảng một nửa lượng mưa trung bình nhiều năm của lưu vực. Là quốc gia nằm ở cuối nguồn, Việt Nam đã và đang tiếp tục giám sát chặt chẽ các biến động về diễn biến thiên tai và nguồn nước trên lưu vực đảm bảo ổn định nguồn nước cho người dân ĐBSCL.
Lưu vực sông Mê Công giảm so với trung bình nhiều năm
Số liệu quan trắc từ các mạng lưới quan trắc thủy văn của Ủy hội sông Mê Công quốc tế, Lào và Thái Lan, mực nước của tất các các trạm quan trắc trên dòng chính sông Mê Công đều đồng loạt sụt giảm mạnh từ giữa tháng 6 năm 2019. Tình hình dòng chảy sông Mê Công tiếp tục diễn biến theo chiều hướng xấu trong tháng 7-2019, cụ thể tại Chiềng Sẻn (Thái Lan), mực nước và dòng chảy trung bình tháng 7 sụt giảm 2,89m và 70% so với dòng chảy trung bình nhiều năm cùng thời kỳ, đặc biệt mực nước trong ngày 18-7 thấp hơn 3,02m so với mức trung bình cùng kỳ và thấp hơn 0,75m so với mực nước tối thiểu từng đo được. Tương tự, tại trạm Viên Chăn sụt giảm mực nước và dòng chảy trung bình trong tháng 7-2019 so với trung bình nhiều năm cùng thời kỳ là 4,47m và 75% so với dòng chảy trung bình nhiều năm cùng thời kỳ, và tại trạm Kra-chê là 4.1m và 60% so với dòng chảy trung bình nhiều năm cùng thời kỳ.
Mùa khô và đầu mùa lũ năm 2019, lưu vực sông Mê Công trải qua một giai đoạn thiếu mưa với tổng lượng mưa trung bình trên lưu vực chỉ đạt khoảng một nửa lượng mưa trung bình nhiều năm của lưu vực.
Riêng tại hai trạm Tân Châu và Châu Đốc là cửa ngõ của đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam, nơi sông Mê Công chảy vào, mực nước bắt đầu xuống thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ ngày 18/6 và trong tháng 7/2019 mực nước ở hai trạm này thường xuyên thấp hơn mực nước trung bình nhiều năm từ 0,8 - 2,3m. Tương tự, dòng chảy ở Tân Châu và Châu Đốc trong tháng 7/2019 cũng thấp hơn dòng chảy trung bình nhiều năm tới 14.000 m3/s, giảm tới 75% dòng chảy trung bình nhiều năm cùng thời kỳ trong tháng 7 tại hai trạm này.
Trên cơ sở đánh giá sơ bộ của Văn phòng Thường trực Ủy ban sông Mê Công Việt Nam, tình hình sụt giảm mực nước và dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công diễn ra trên toàn Lưu vực sông Mê Công, kể cả phần lưu vực thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Hiện tượng này bắt đầu xảy ra từ giữa tháng 6-2019 và hiện vẫn tiếp tục diễn biến xấu cho tới nay.
Theo đánh giá của các chuyên gia, có 3 nguyên nhân dẫn đến tình trạng sụt giảm mực nước trên toàn lưu vực sông Mê Công. Đó là: mưa ít, vận hành các hồ thủy điện và nhu cầu sử dụng nước gia tăng.
Nguyên nhân thứ nhất phải kể đến là lượng mưa hạn chế trên toàn lưu vực. Lượng mưa ở tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đầu mùa lũ năm 2019 sụt giảm bất thường so với trung bình nhiều năm, cụ thể là tháng 6 năm 2019 lượng mưa chỉ đạt 90% so với lượng mưa trung bình nhiều năm (khoảng 100mm) và đặc biệt trong suốt tháng 7-2019 không hề có mưa.
Lượng mưa trên phần lưu vực giữa Lào và Thái Lan cũng tương tự khi trong tháng 6-2019 lượng mưa chỉ đạt 30 - 50% lượng mưa trung bình nhiều năm và tháng 7 năm 2019 lượng mưa chỉ đạt 15 - 35% lượng mưa trung bình nhiều năm.
Lượng mưa trên phần lưu vực của Campuchia tháng 6-2019 chỉ đạt 40 - 60% lượng mưa trung bình nhiều năm và tháng 7-2019 lượng mưa chỉ đạt 30 - 50% lượng mưa trung bình nhiều năm.
Có thể thấy mùa khô năm 2019, lưu vực sông Mê Công trải qua một giai đoạn thiếu mưa với tổng lượng mưa trung bình trên lưu vực chỉ đạt khoảng một nửa lượng mưa trung bình nhiều năm của lưu vực. Đặc biệt tháng 7 năm 2019, lượng mưa trên lưu vực sông Mê Công giảm mạnh, cụ thể là không mưa trên phần lưu vực thuộc tỉnh Vân Nam, Trung Quốc và giảm tới 50 - 70% cho các khu vực ở hạ du, bao gồm cả đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam.
Nguyên nhân thứ hai liên quan đến vận hành của các đập thủy điện trên thượng nguồn.
Trong khi dòng chảy xả tháng 6-2019 từ đập Cảnh Hồng (đập cuối cùng của bậc thang thủy điện của Trung Quốc ở tỉnh Vân Nam) vẫn ở mức khá cao là tăng khoảng 20% so với mức trung bình nhiều năm, mức xả tháng 7-2019 sụt giảm từ 20 - 60% dòng chảy xả trung bình tháng 7 nhiều năm.
Hạn hán, thiếu nước khiến các hoạt động trên chợ nổi khu vực ĐBSCL khó khăn hơn. Ảnh: Internet
Đầu tháng 7 năm 2019, phía Trung Quốc đã thông báo cho các quốc gia hạ du sông Mê Công theo kênh hợp tác nguồn nước Mê Công – Lan Thương là với mục tiêu để bảo dưỡng công trình, đập Cảnh Hồng sẽ giảm lưu lượng xả nước từ ngày 05 đến 19 tháng 7 năm 2019 tương ứng giảm tới 50% lượng nước xả trung bình nhiều năm.
Đối với Lào, hiện đã có hai công trình thủy điện trên dòng chính sông Mê Công bắt đầu đi vào vận hành là đập Xay-nha-bu-ly và đập Đôn Sa-hông. Trong khi đập Đôn Sa-hông là một công trình thủy điện có quy mô nhỏ và việc vận hành công trình này có thể không gây tác động lớn đến chế độ dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công thì đập Xay-nha-bu-ly với quy mô lớn hơn sẽ gây ra tác động đến chế độ dòng chảy vùng hạ lưu sông Mê Công. Đặc biệt là trong giai đoạn hồ bắt đầu tích nước và công trình mới đi vào vận hành, để thử nghiệm vận hành turbine theo các cấp mực nước hồ khác nhau.
Nhu cầu sử dụng nước gia tăng là nguyên nhân thứ ba dẫn đến sự sụt giảm mực nước.
Có thể thấy lưu vực sông Mê Công hiện đang trải qua một giai đoạn biến động thời tiết, mưa ít và làm suy giảm mạnh dòng chảy từ các sông nhánh đóng góp cho dòng chính sông Mê Công. Tình hình thiếu nước này cũng dẫn đến việc gia tăng sử dụng nước từ hệ thống sông trên toàn lưu vực, các hồ tăng cường tích nước và giảm lưu lượng xả đã góp phần làm giảm mực nước và dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công.
Xu thế tình hình thiếu nước này có thể được cải thiện trong thời gian tới, cụ thể là tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đã bắt đầu có mưa trở lại từ cuối tháng 7-2019; đập Cảnh Hồng đã xả chế độ bình thường như đã thông báo; mực nước tại trạm quan trắc thủy văn Chiềng Sẻn đã bắt đầu tăng lên; vùng Hạ lưu vực sông Mê Công lượng mưa cũng đã gia tăng… Tuy nhiên, với xu thế cải thiện khá chậm như hiện nay, thêm vào đó theo thông báo của Trung Quốc từ ngày 11/8/2019 đến ngày 15/8/2019, đập Cảnh Hồng giảm lưu lượng xả xuống hạ du từ 1.100m3/s xuống còn 600-800 m3/s và theo dự báo từ tháng 8 cho đến cuối năm 2019 lượng mưa trên toàn lưu vực sông Mê Công cũng sẽ chỉ có thể đạt ở mức tương đương và nhỏ hơn lượng mưa trung bình nhiều năm, nên dòng chảy trên dòng chính sông Mê Công khó có thể đạt được mức trung bình nhiều năm và toàn Lưu vực sông Mê Công sẽ có một mùa lũ thấp
ĐBSCL: Đối mặt với một mùa khô khắc nghiệt
Nằm ở cuối nguồn nên đồng bằng sông Cửu Long của Việt Nam ngoài việc phải chịu các tác động của biến động thời tiết nêu trên còn chịu cả các tác động lũy tích do gia tăng sử dụng nước ở thượng nguồn do tình hình thiếu nước. Các yếu tố chủ yếu ảnh hưởng đến dòng chảy và xâm nhập mặn trong mùa khô là dòng chảy từ thượng nguồn sông Mê Công (đến Kratie), lượng trữ nước trong Biển Hồ và lượng mưa tại chỗ vùng đồng bằng. Trong năm 2019, mực nước trên sông Mê Công và Biển Hồ của Campuchia đến nay mới chỉ tiệm cận dòng chảy trung bình ngày nhỏ nhất trong nhiều năm, trong thời gian tới theo dự báo mưa có thể không nhiều, sẽ làm cho mức độ hồi phục chế độ dòng chảy tới Đồng bằng sông Cửu Long chậm hơn.
Ngoài việc có thể sẽ phải trải qua một mùa lũ thấp, hoặc thậm chí “không có lũ”, đồng bằng sông Cửu Long cũng cần phải chuẩn bị cho một mùa khô khắc nghiệt trong năm 2020 trước hết do khả năng điều tiết của Biển Hồ bị suy giảm nghiêm trọng do không tích được nhiều nước trong mùa lũ năm nay.
Với tình hình trên, Bộ Tài nguyên và Môi trường theo dõi chặt chẽ và ban hành sớm, sát với thực tế các thông tin dự báo về diễn biến tình hình hạn hán, xâm nhập mặn phục vụ công tác ứng phó cho các địa phương và cơ quan liên quan.
Bộ cũng tiếp tục phối hợp Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn xác định thời vụ và diện tích sản xuất các vụ phù hợp với điều kiện nguồn nước, tránh ảnh hưởng của xâm nhập mặn trùng với thời kỳ sinh trưởng nhạy cảm của cây trồng; nghiên cứu các giải pháp nhằm gia tăng diện tích trữ nước tại đồng bằng sông Cửu Long.
Bên cạnh đó, các địa phương cần theo dõi chặt chẽ các thông tin dự báo về diễn biến thời tiết, chủ động ứng phó tình hình hạn hán và xâm nhập mặn, khuyến cáo và hướng dẫn người dân chủ động trữ nước, sử dụng giống và bố trí các loại cây trồng hợp lý, đặc biệt cần khuyến cáo người dân sử dụng nước tiết kiệm, hiệu quả.
Đặc biệt, Ủy ban sông Mê Công Việt Nam tiếp tục giám sát chặt chẽ các biến động về nguồn nước sông Mê Công ở thượng nguồn, thúc đẩy Ủy hội sông Mê Công quốc tế và các quốc gia thành viên xây dựng mạng quan trắc khí tượng thủy văn và môi trường; xây dựng cơ chế toàn diện chia sẻ thông tin số liệu và hành động chung cho trường hợp khẩn cấp trong Hợp tác Mê Công - Lan Thương phục vụ yêu cầu ứng phó với các tình trạng hạn hán trong mùa khô
Đặc điểm địa lý
Sông Mê Công dài 4.909km bắt nguồn từ vùng núi cao tỉnh Thanh Hải, theo suốt chiều dài tỉnh Vân Nam (Trung Quốc), qua các nước Myanma, Thái Lan, Lào, Campuchia trước khi vào Việt Nam rồi đổ ra biển Đông.
Lưu vực sông Mê Công có tổng diện tích 795,000km2 trong đó phần nằm trên lãnh thổ của bốn quốc gia Thái Lan, Lào, Campuchia và Việt Nam là hạ lưu vực, chiếm trên 77%.
Mê Công là con sông dài thứ 12 trên thế giới và lớn thứ 10 về tổng lượng dòng chảy (hàng năm đạt khoảng 475 tỷ m3, lưu lượng trung bình khoảng 15,000 m³/s).
Tài nguyên thiên nhiên
Ngoài nguồn tài nguyên nước, lưu vực sông Mê Công có tính đa dạng sinh học rất cao, chỉ xếp sau lưu vực sông Amazon ở Nam Mỹ. Dòng chảy sông Mê Công nuôi dưỡng nhiều vùng đất ngập nước đa dạng, đa chức năng trong lưu vực Mê Công và duy trì các giá trị kinh tế, văn hóa, xã hội và sinh thái đặc trưng. Đất ngập nước có vai trò quan trọng: là nguồn sống của người dân địa phương, tạo môi trường thuận lợi cho nông nghiệp, đánh bắt và nuôi trồng thủy sản, sản xuất hàng hóa và phát triển du lịch.
Ngoài ra, các vùng đất ngập nước tự nhiên còn mang lại các lợi ích khác như giảm thiểu lũ, trữ nước và làm sạch môi trường.
Những cánh rừng rộng lớn trong lưu vực sông Mê Công là môi trường sinh sống cho hàng ngàn loài động thực vật. Các hệ sinh thái rừng ở lưu vực này rất phong phú với các khu rừng xanh, rừng trên núi, rừng cây rụng lá, cây bụi, cây lấy gỗ và rừng đước. Rừng cung cấp vật liệu xây dựng và các sản phẩm ngoài gỗ là nguồn thu nhập quan trọng của người dân nông thôn và nguồn thị trường các sản phẩm động, thực vật như thức ăn, dược liệu và các loại khác.
Hạ lưu vực sông Mê Công là một trong những vựa cá nước ngọt lớn nhất trên thế giới, với khoảng 850 loài cá và sản lượng khoảng 4 triệu tấn mỗi năm. Vựa cá này là nguồn cung cấp protein động vật phong phú cho cư dân lưu vực.
Con người và sinh kế
Hạ lưu vực sông Mê Công là “ngôi nhà” của hơn 60 triệu người với trên 100 dân tộc khác nhau tạo thành một trong những vùng đa dạng văn hoá nhất trên thế giới. Khoảng 85% dân cư trong lưu vực là nông dân và ngư dân sống dưới mức nghèo. Mức sống bình quân của người dân trong lưu vực thấp hơn người dân nằm ngoài lưu vực của quốc gia mình.
Nông dân trong lưu vực Mê Công đã canh tác ruộng nước từ lâu đời. Ngày nay, nhiều nông dân đã có cơ hội canh tác 2-3 vụ/năm trên những vùng đất với khoảng 12.500 hệ thống tưới tiêu. Do yếu tố giá cả nông phẩm biến động, người dân chuyển dần từ canh tác lúa sang các cây trồng khác có hiệu quả kinh tế cao hơn.
Thủy sản là nguồn sống quan trọng của cư dân lưu vực. Nó không chỉ mang lại thu nhập cho ngư dân mà còn tạo việc làm cho người lao động với các nghề liên quan như sản xuất thức ăn cho cá, công cụ đánh bắt, sửa chữa tàu thuyền v.v…
Các hoạt động phát triển
Thủy điện
Hiện nay, các công trình thuỷ điện trên dòng nhánh và dòng chính sông Mê Công ở Trung Quốc có công suất khoảng 16.000MW, chủ yếu cung cấp điện cho các đô thị và công nghiệp ngoài lưu vực. Theo ước tính, tiềm năng thuỷ điện vùng hạ lưu vực sông Mê Công là 30.000MW. Trong đó, công suất các công trình thủy điện đã lắp đặt trên các dòng nhánh là 3235MW và công suất các công trình đang được xây dựng là hơn 3209MW.
Việc xây dựng đập thủy điện trên dòng chính sông Mê Công từ lâu đã có nhiều tranh cãi. Chính phủ của các nước trong lưu vực luôn phải cân đối nhu cầu tăng thêm năng lượng với các mối quan ngại về kinh tế, xã hội và môi trường.
Hiện nay, các dự án thủy điện trên dòng chính ở Hạ lưu vực sông Mê Công là một vấn đề thời sự nổi bật và các nghiên cứu về tính khả thi dự án đã và đang được xem xét tiến hành.
Giao thông, thương mại và du lịch
Từ lâu, sông suối là đường vận chuyển hàng hóa chính trong lưu vực sông Mê Công. Trừ khu vực gần thác Khone ở biên giới Lào - Campuchia thì gần như toàn bộ dòng chính sông Mê Công đều có thể đi lại bằng đường thủy. Việc xây dựng hệ thống đường cao tốc châu Á bắt đầu khởi động liên kết các thành phố chính trong lưu vực. Đến nay, đã có 7 cây cầu bắc qua sông Mê Công và 6 cây cầu khác đang được lên kế hoạch hoặc đang xây dựng.
Khi các quốc gia trong lưu vực Mê Công tiến vào kỷ nguyên hợp tác hoà bình thì nhịp độ phát triển ở nhiều lĩnh vực tăng lên nhanh chóng. Trong những năm gần đây, rất nhiều các thỏa thuận thương mại, giao thông, du lịch được ký kết. Kim ngạch thương mại của 6 nước trong lưu vực tăng nhanh.
Cùng với sự gia tăng các hoạt động thương mại và hệ thống giao thông được cải thiện, ngành du lịch trong lưu vực bắt đầu phát triển. Các cảnh đẹp thiên nhiên, sự đa dạng về văn hoá của lưu vực đang thu hút hàng ngàn du khách đến lưu vực.
M. T (tổng hợp)
Chia sẻ bài viết |
Dự án CSAT Bến Tre tập huấn lập kế hoạch sản xuất, kinh doanh
Gặp gỡ mạng lưới cố vấn khởi nghiệp tỉnh Bến Tre định kỳ lần I năm 2025
Tiếp tục thực hiện công tác chống buôn lậu, gian lận thương mại khu vực biên giới biển
Hội đồng quản trị Ngân hàng Chính sách xã hội làm việc với Ban đại diện Hội đồng quản trị các cấp
Khai trương nha khoa SGTD GLOBAL tại Hoa Kỳ