 |
Các đồng chí lãnh đạo TP. Hồ Chí Minh và Bến Tre đang trao đổi những vấn đề cần hợp tác, cần tập trung đầu tư giai đoạn 2009-2015. Ảnh: T.C |
Bài 1: Còn quá nhiều khó khăn cần tập trung giải quyết
Tính đến thời điểm này, toàn tỉnh có 2.484 doanh nghiệp đang hoạt động theo Luật Doanh nghiệp (trong đó có 34 doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài - FDI), với tổng vốn đăng ký là 5.722 tỷ đồng và 237 triệu USD. Tốc độ phát triển bình quân từ năm 2007 đến 2011 tăng 12,6% về số doanh nghiệp (DN) đăng ký mới và tăng 21,9%/năm về vốn đăng ký. Môi trường đầu tư và kinh doanh của tỉnh được xếp vào nhóm 20 tỉnh có chỉ số năng lực cạnh tranh cấp tỉnh cao nhất cả nước. Tại hai khu công nghiệp (KCN) Giao Long và An Hiệp đã có 24 dự án đầu tư, với tổng vốn đăng ký là 5.425 tỷ đồng , trong đó có 14 dự án FDI với tổng vốn đăng ký là 187 triệu USD; tổng diện tích đất cho thuê là 173,5ha (đạt 86% diện tích KCN Giao Long, đạt 79% diện tích KCN An Hiệp), phần diện tích còn lại của KCN Giao Long (9,23ha có khả năng cho thuê ngay)… Tuy nhiên, vẫn còn một “phía sau” nhiều chuyện cần bàn.
Thuận lợi có
Quyết định 03/2010 của UBND tỉnh về chính sách ưu đãi đầu tư trên địa bàn tỉnh Bến Tre, Điều 3: thuê đất đối với các dự án thuộc lĩnh vực xã hội hóa, dự án đầu tư trong lĩnh vực vui chơi giải trí:
a- Đơn giá thuê đất đối với đất đô thị, đất ở cho các dự án thuộc lĩnh vực xã hội hóa được tính tỷ lệ tiền thuê đất bằng 0,25% nhân với giá đất theo mục đích sử dụng đất thuê được UBND tỉnh ban hành hàng năm.
b- Các hình thức UBND tỉnh giao đất hoặc cho thuê đất đã hoàn thành giải phóng mặt bằng để xây dựng các công trình xã hội hóa, ký túc xá cho sinh viên: Giao đất không thu tiền sử dụng đất; Cho thuê đất và miễn tiền thuê đất; Giao đất có thu tiền sử dụng đất và được miễn tiền sử dụng đất.
Sau 5 năm (2006-2010) triển khai công tác thu hút đầu tư, bao gồm cả đầu tư tư nhân trong nước và nguồn vốn FDI, toàn tỉnh có 1.262 doanh nghiệp mới được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh và thu hút 220 triệu USD vốn FDI. Bến Tre là tỉnh đứng hàng thứ 7 ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long và hạng thứ 40 của cả nước về thu hút vốn FDI. Các DN này tập trung chủ yếu ở KCN Giao Long, An Hiệp. Để có được con số đáng mừng trên, điều đầu tiên phải kể đến là: theo cơ chế phân cấp, tỉnh đã ban hành một số chính sách ưu đãi đầu tư trong và ngoài KCN, như: QĐ số 03/2010 về ban hành Qui định một số chính sách ưu đãi đầu tư chung trên địa bàn, QĐ số 25/2010 về ban hành Qui định ưu đãi cho các DN khi đầu tư vào hạ tầng KCN, QĐ số 25/2011 về ban hành Qui định ưu đãi cho các DN khi đầu tư vào hạ tầng cụm công nghiệp… Bên cạnh đó, tỉnh cũng có một số cải tiến nhất định, tập trung đầu mối và giải quyết thủ tục theo cơ chế “một cửa tại chỗ”, “một cửa liên thông”… Theo đánh giá của cơ quan chủ quản, đa số các DN đầu tư trong các KCN có tiến độ xây dựng nhanh và đi vào hoạt động có hiệu quả. Các dự án đầu tư ngoài KCN (58 dự án) chủ yếu tập trung trên địa bàn thành phố Bến Tre, Mỏ Cày Nam, Bình Đại, Châu Thành, Ba Tri và Giồng Trôm. Ngành nghề kinh doanh của các doanh nghiệp FDI ngoài KCN chủ yếu là chế biến các sản phẩm từ dừa, kinh doanh khách sạn, du lịch… Đối với các dự án đầu tư trong nước, nhà đầu tư được quyền tự thực hiện mà không cần phải làm bất kỳ thủ tục nào để xin cấp giấy chứng nhận đầu tư (ngoại trừ làm thủ tục đăng ký thành lập DN theo Luật Doanh nghiệp năm 2005). Ngoài ra, trên địa bàn tỉnh còn có 34 dự án trong và ngoài nước đang trình UBND tỉnh chấp thuận chủ trương đầu tư. Một số huyện như Ba Tri, Mỏ Cày Nam và thành phố Bến Tre khá năng động trong tổ chức thu hút đầu tư. Đặc biệt, thành phố Bến Tre đã thành lập riêng một tổ xúc tiến đầu tư gồm các phòng chức năng của thành phố do đồng chí Phó Chủ tịch UBND thành phố trực tiếp chỉ đạo, để tiếp nhận thông tin từ tỉnh, từ nhà đầu tư đến liên hệ…
Đi vào cụ thể ở KCN Giao Long, An Hiệp sẽ dễ dàng nhìn ra bức tranh kêu gọi đầu tư, kết quả công tác xúc tiến đầu tư trên địa bàn tỉnh thời gian qua. KCN Bến Tre được hình thành từ cuối năm 2005. Từ khi hình thành KCN, tình hình thu hút đầu tư bắt đầu sôi động, công tác xúc tiến đầu tư và cung cấp thông tin xúc tiến đầu tư bắt đầu nóng lên. Cùng lúc, tỉnh vừa tổ chức hội thảo xúc tiến đầu tư trong và ngoài tỉnh, phối hợp với các hiệp hội DN trong và ngoài nước để tiếp cận các nhà đầu tư tiềm năng, đồng thời chỉ đạo ngành chức năng (Sở Kế hoạch - Đầu tư, Ban Quản lý các KCN tỉnh) kêu gọi đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng. Thêm vào đó, giá thuê đất trong KCN khá hấp dẫn so với khu vực, điều kiện giao thông, kết nối với các tỉnh lân cận ngày càng hoàn thiện, nhanh chóng… Chính nhờ vậy, đến nay tỷ lệ lấp đầy hai KCN đạt khoảng 82,97% đất công nghiệp có khả năng cho thuê. Tại đây có 26 dự án, trong đó có 17 dự án chính thức đi vào hoạt động, giá trị sản xuất công nghiệp năm 2010 và mười tháng năm 2011 đạt trên 5.562 tỷ đồng, kim ngạch xuất khẩu đạt 203 triệu USD.
Quyết định 25/2010 của UBND tỉnh về ưu đãi đầu tư hạ tầng khu công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre, trong ưu đãi về thuê đất, DN được miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản, tối đa không quá 36 tháng. Sau khi kết thúc xây dựng cơ bản đưa dự án vào hoạt động được miễn thêm 11 năm tiền thuê đất; trong Chính sách hỗ trợ chi phí giải phóng mặt bằng: tỉnh sẽ hỗ trợ với mức tối đa bằng 30% chi phí giải tỏa đền bù cho từng KCN, khu tái định cư và nhà ở công nhân theo dự án đầu tư.
Thực tế là vậy, song cũng có không ít nhà đầu tư (trung bình mỗi năm có từ 60-90 đoàn DN, nhà đầu tư cá nhân) đến Bến Tre tìm hiểu và thương thảo đầu tư nhưng đành phải “chia tay” do một số “rào cản” khó vượt qua.
Khó khăn quá nhiều…
Bắt đầu từ việc thực hiện các chính sách thu hút đầu tư của tỉnh thời gian qua. Các qui định ưu đãi của tỉnh đề ra nhìn chung đều tuân thủ đúng “mực thước” của Trung ương, không có chuyện xé rào, vượt rào, nhưng hiện vẫn chưa có nhà đầu tư nào được thụ hưởng, do các dự án đầu tư hạ tầng khu, cụm công nghiệp đang dừng lại ở xin chủ trương, chưa có DN nào được cấp phép chính thức. Ở đây có một vấn đề đang “bàn luận”: trong Công văn số 1338/2010 của UBND tỉnh (về việc rà soát các dự án đầu tư phát triển do DN đầu tư bằng nguồn vốn chủ sở hữu), có những qui định có thể xem là “trở ngại lớn nhất của các dự án xin chủ trương” là chưa tách bạch các thủ tục đầu tư theo luật, là bắt nhà đầu tư lập thuyết minh sơ bộ dự án đầu tư gồm nhiều nội dung như: kết quả nghiên cứu thị trường, đánh giá tác động môi trường, đánh giá hiệu quả kinh tế - xã hội của dự án… Mà theo nhà đầu tư, đây là những vấn đề “nhạy cảm”, là “bí quyết sống còn” của DN “bất khả lộ”. Đó là chưa kể các khâu khác trong Văn bản này bắt buộc nhà đầu tư phải xoay sở và liên hệ với rất nhiều sở, ngành, địa phương để “xin” được đồng ý trước khi hoàn tất hồ sơ gửi về Sở Kế hoạch - Đầu tư. Cũng theo một văn bản của tỉnh ban hành (QĐ 03/2010) đó là, nếu đầu tư lĩnh vực xã hội hóa (văn hóa, thể thao, y tế, dạy nghề) nhà đầu tư sẽ được giao đất sạch, cho thuê đất không thu tiền sử dụng đất theo qui định. Và thực tế, tỉnh chưa có đủ lực để hỗ trợ nhà đầu tư nếu đầu tư theo hình thức này. Cũng theo chính sách ưu đãi, thì Nhà nước đầu tư hạ tầng (điện, đường, nước) đến hàng rào nhà máy. Vấn đề này dường như chỉ được chuẩn bị tốt trong các KCN, còn các dự án bên ngoài hầu hết đều rất khó khăn khi tiếp cận nguồn điện và nước sạch. Ví dụ, có một số cầu giao thông có tải trọng lưu thông cho phép không phù hợp với các loại phương tiện ra vào KCN An Hiệp. Hay trong công tác nghiệp vụ, dù ngành chủ quản đã thực hiện tối ưu việc đơn giản hóa thủ tục bằng “một cửa tại chỗ”, “một cửa liên thông” nhưng do nhân viên chưa có kinh nghiệm, nhà đầu tư chưa quen thủ tục nên thời gian giải quyết thường kéo dài hơn so qui định. Việc chuẩn bị tiếp nhận đầu tư cũng còn nhiều “dấu lửng”. Do chưa có danh mục dự án ưu tiên kêu gọi đầu tư thống nhất, nên phần lớn các dự án do nhà đầu tư đưa ra, nếu tỉnh thấy phù hợp (có thể chỉ phù hợp trong từng lúc) thì chấp thuận (khi có quĩ đất trống). Từ đó dẫn đến tình trạng, tỉnh phải mất nhiều thời gian để họp bàn thống nhất với các đề xuất của nhà đầu tư. Có phải từ đây nên có “hiện tượng” DN đăng ký vốn đầu tư như cam kết trong dự án thì cao nhưng khâu giải ngân, thực thi dự án lại quá “khiêm tốn”. Cụ thể, tại 2 KCN Giao Long, An Hiệp có 12 dự án trong nước với tổng vốn đăng ký là 1.963,82 tỷ đồng, đến nay mới giải ngân được khoảng 35% và 14 dự án FDI với tổng vốn đầu tư là 187,04 triệu USD, mới giải ngân được gần 64%. Theo các nhà phân tích kinh tế, hiện tượng này có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân: do nhà đầu tư không đủ lực để thực hiện dự án như cam kết, hoặc nhà đầu tư góp vốn “cầm chừng” để “giữ chỗ” trong “thị trường” mặt bằng KCN. Cũng có thể xảy ra trường hợp nhà đầu tư tính toán để khi đến một thời điểm thuận lợi sẽ sang nhượng mặt bằng. Mọi biểu hiện này xét đến cùng đều không đúng luật. Một khó khăn nữa, hiện nay với gần 13.000 lao động tại 2 KCN Giao Long, An Hiệp, chỗ ở cho công nhân đang là bức xúc nhưng việc đầu tư cho dự án xây dựng nhà ở cho công nhân thì lại “rảnh rỗi” vì không có đất. Mặc dù dân số Bến Tre nói riêng được xem là “dân số vàng”, là người trong độ tuổi lao động đang “thắng thế”. Theo số liệu thống kê của ngành chủ quản, hàng năm cả tỉnh tổ chức dạy nghề và giới thiệu việc làm cho khoảng 30 nghìn lao động. Tuy nhiên, việc thu hút nguồn lao động hiện nay để làm việc cho các nhà máy tại KCN vẫn rất khó khăn, nhất là công nhân có kỹ năng, tay nghề phù hợp. Khâu “bọc đuôi” hỗ trợ sau giấy phép dường như còn “bỏ ngỏ”, chưa có một cơ quan đầu mối thực hiện nhiệm vụ này cho nhà đầu tư một cách xuyên suốt nên đã xảy ra tình trạng nhà đầu tư thường “bám” cơ quan cấp phép để được hỗ trợ khi gặp khó khăn.
Một vấn đề có thể coi là mắt xích chính trong bài toán kêu gọi đầu tư nhưng lại đang “có vấn đề” hiện nay chính là mặt bằng, là “đất sạch”. Một mặt, cơ quan xúc tiến đầu tư vẫn đẩy mạnh công tác kêu gọi đầu tư, nhưng ngược lại khi nhà đầu tư đến xin đầu tư thì tỉnh đành “bó tay” do không có đất sạch, và hệ quả là phải từ chối hoặc yêu cầu nhà đầu tư đợi thêm thời gian. Một câu hỏi được đặt ra: Tại sao tỉnh không mở rộng 2 KCN hiện có và xây dựng các KCN mới? Nếu tỉnh đầu tư mở rộng 2 KCN này, vốn đầu tư cần ngay 200 tỷ đồng trong năm 2012. Điều này làm sao thực hiện khi cả nước đang trong tình hình thắt chặt đầu tư công? Nếu giải quyết được vấn đề này có thể xem là lời giải cho bài toán kêu gọi đầu tư?

Các đồng chí lãnh đạo tỉnh dự lễ khởi công xây dựng nhà máy chế biến bột cá Gò Đàng tại KCN An Hiệp (Châu Thành). Ảnh: T.C
Bài 2: Giải phóng mặt bằng cần phải có sự chung tay của cả hệ thống chính trị
Qua phân tích trong bài 1 Còn quá nhiều khó khăn trong xúc tiến đầu tư, chúng ta dễ nhận ra và có thể xem việc giải phóng mặt bằng (GPMB), tạo quỹ đất sạch là một mắt xích quan trọng để giải quyết bài toán kêu gọi đầu tư.
Lãnh đạo tỉnh và các ngành chức năng có đặt vấn đề mở rộng khu công nghiệp (KCN) hiện có, xây dựng mới các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh? Vấn đề này đã được lãnh đạo tỉnh bàn luận nhiều và đã có chủ trương mở rộng hai KCN hiện có, đồng thời xin chủ trương Chính phủ cho tỉnh xây dựng thêm nhiều khu, cụm công nghiệp khác trên địa bàn. Sau khi được Chính phủ phê duyệt đưa vào danh mục các KCN cấp quốc gia, giai đoạn phát triển từ nay đến năm 2020, Bến Tre sẽ có thêm các KCN gồm: KCN Giao Hòa, Thanh Tân (Mỏ Cày Bắc), Phước Long (Giồng Trôm), Thành Thới (Mỏ Cày Nam) và Phú Thuận (Bình Đại). Về qui hoạch, đến nay, 2 KCN đã xây dựng xong qui hoạch chi tiết 1/2000 và các KCN còn lại đang triển khai lập qui hoạch chi tiết. Riêng hai KCN Giao Long và An Hiệp, tỉnh đang tiến hành mở rộng giai đoạn II.
Để thấy được hiện thực việc GPMB, triển khai các dự án, KCN, thu hút đầu tư thực tế tại một số khu, cụm công nghiệp dù đã có qui hoạch, chưa có qui hoạch, đang mở rộng mặt bằng như thế nào, chúng tôi xin dẫn lời một số đồng chí lãnh đạo các sở, ngành, địa phương có liên quan. Theo đồng chí Nguyễn Văn Quới - Phó Chủ tịch UBND huyện Giồng Trôm, hầu hết các công trình trên địa bàn chưa thực hiện xong công tác GPMB do người dân trong vùng dự án luôn đòi nâng giá bồi thường cao hơn giá qui định. Riêng cụm công nghiệp Phong Nẫm, 10ha (theo chủ trương ban đầu) đã bàn giao mặt bằng cho nhà đầu tư. Phần mở rộng thêm (30ha) đang chờ UBND tỉnh phê duyệt qui hoạch chi tiết. Dù vậy, nhưng tại phần “thêm” này đã có các nhà đầu tư đăng ký hết 20ha. Đây là điều rất phấn khởi, tuy nhiên cũng tạo “áp lực” rất lớn cho địa phương bởi các bước còn lại là rất nhiều từ công bố quyết định thu hồi đất, đo đạc, lên phương án bồi thường GPMB… sẽ kéo dài, không tiên liệu được nhà đầu tư có đủ kiên trì “chờ đợi” hay lại “chuyển vùng” đi nơi khác. Hoặc đối với KCN Phú Thuận (Bình Đại), dự án phát triển là 230ha. Và KCN này đang “nằm yên” ở khâu đã có qui hoạch chi tiết. Theo đồng chí Nguyễn Hữu Lập - Bí thư Huyện ủy, huyện rất muốn tiến hành các bước tiếp theo để thu hút đầu tư, vì hiện tại đây cũng đã có nhiều nhà đầu tư đến “coi mắt” song rồi đi do chưa GPMB xong. Địa phương đã rất tiếc vì hụt một mối lớn (Công ty Tech Hong của Hồng Kông) do chưa có mặt bằng nên đã chạy sang Tiền Giang đầu tư. Đã có qui hoạch chi tiết, tại sao địa phương không tiến hành các bước tiếp theo để thu hút mời gọi đầu tư? Đồng chí Nguyễn Hữu Lập chia sẻ, địa phương cũng muốn thực hiện lắm, nhưng “lực bất tòng tâm”, và có một số quan điểm lại chuyển sang hướng, chờ nhà đầu tư đến “nghiên cứu”, “coi mắt”, đăng ký trước mới tính đến chuyện GPMB. Làm như vậy có bị “chậm chân” nữa không? Còn đối với huyện Châu Thành, địa phương đã có quá nhiều “kinh nghiệm” trong công tác GPMB nói gì? Theo đồng chí Trần Văn Thọ- Chủ tịch UBND huyện, trong hội nghị tổng kết công tác xúc tiến đầu tư do UBND tỉnh tổ chức vừa qua, có bổ sung thêm một vài khó khăn trong triển khai công tác GPMB. Đó là có quá nhiều sai sót trong thực hiện nghiệp vụ: đo đạc không chính xác, cập nhật số liệu từ cơ sở “chênh” quá lớn với thực tế dẫn đến sai sót về diện tích, số lượng cây trồng, vật kiến trúc. Nên hay không nên có chính sách “tăng thêm” đối với những trường hợp giao nhiều đất, đồng nghĩa là sẽ nhận được nhiều nền tái định cư? Nên có văn bản thống nhất trong áp giá đền bù… Theo đồng chí Cao Thành Hiếu - Chủ tịch UBND thành phố Bến Tre, để thực hiện thành công công tác GPMB cần phải có sự phối hợp giữa các đoàn thể, tập trung giải quyết ráo rẻ khiếu nại của người dân… Đối với các trường hợp bị giải tỏa trắng cần có chính sách ưu tiên để giúp người dân tái ổn định cuộc sống, có điều kiện phát triển nghề nghiệp.
Quyết định số 14/2010 của UBND tỉnh về việc ban hành Qui định về chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Hỗ trợ tái định cư: trường hợp hộ gia đình, cá nhân nhận đất ở tái định cư tập trung nhưng số tiền bồi thường, hỗ trợ nhỏ hơn giá một suất tái định cư tối thiểu thì được hỗ trợ khoảng chênh lệch đó. Suất tái định cư tối thiểu được qui định bằng 50 triệu đồng..
Hỗ trợ ổn định đời sống: khi Nhà nước thu hồi đất nông nghiệp trên 70% diện tích đang sử dụng thì được hỗ trợ ổn định đời sống trong 12 tháng; nếu di chuyển chỗ ở sẽ được hỗ trợ trong 24 tháng; trường hợp phải di chuyển đến địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn hoặc đặc biệt khó khăn thì sẽ hỗ trợ tối đa 36 tháng... |
Đối với hai KCN Giao Long và An Hiệp, việc mở rộng được thực hiện như thế nào? Đồng chí Huỳnh Văn Nuôi - Trưởng ban Quản lý Các khu công nghiệp tỉnh cho biết, KCN Giao Long (giai đoạn II) sẽ tiến hành mở rộng thêm 68ha nữa. Các công việc công bố quyết định thu hồi đất, kiểm kê, đo đạc, lên phương án bồi thường… đã thực hiện xong, nhưng kinh phí chưa có để chi trả cho dân. Đối với KCN An Hiệp, đang tiến hành giải tỏa tiếp 26ha còn lại. Đây là phần “khó” của các giai đoạn trước còn “ứ đọng” lại, đang là “cái khó” bởi cơ quan chức năng đã thực hiện xong tất cả các bước, đã có 130/139 hộ nhận tiền bồi thường nhưng chưa bàn giao mặt bằng. Để đảm bảo theo đúng cam kết với nhà đầu tư, hiện Ban quản lý đang phối hợp địa phương thực hiện các bước tiến hành thực hiện cưỡng chế thu hồi đất.
Công tác GPMB, thu hồi đất trên địa bàn tỉnh thời gian qua còn rất nhiều khó khăn, hầu như công trình dự án nào cũng có phần “xương”, phải thực hiện “quyền phủ quyết” - cưỡng chế thu hồi đất. Chỉ tính trong năm 2010 và 9 tháng đầu năm 2011, cả tỉnh đã thu hồi trên 973ha đất của 95 dự án, có 10.440 hộ bị ảnh hưởng, trong đó có 9.000 hộ đồng ý giao mặt bằng, trên 1.000 hộ còn gửi đơn khiếu nại. Nói như vậy, không có nghĩa là lãnh đạo tỉnh không tích cực tháo gỡ, không có những chính sách hỗ trợ. Nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho công tác bồi thường, hỗ trợ và tái định cư khi Nhà nước thu hồi đất, đảm bảo các quyền lợi cơ bản của người sử dụng đất bị thu hồi, UBND tỉnh đã ban hành QĐ số 14/2010 về ban hành Qui định chính sách hỗ trợ khi Nhà nước thu hồi đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre, QĐ số 18/2010 ban hành Qui định về việc thực hiện bồi thường, hỗ trợ, tái định cư và trình tự, thủ tục thu hồi đất, giao đất, cho thuê đất trên địa bàn tỉnh Bến Tre.
Tổng lược những hạn chế, khó khăn trong công tác GPMB, thu hồi đất trên địa bàn tỉnh thời gian qua, có thể nêu lên một số khiếm khuyết, vướng mắc. Đó là, công tác quản lý đất đai ở cơ sở trải qua nhiều thời kỳ, có nhiều biến động chưa được cập nhật, chỉnh lý kịp thời dẫn đến khó khăn trong việc xác định nguốc gốc đất, chủ sử dụng đất. Giá chuyển nhượng quyền sử dụng đất trên thị trường có nhiều biến động tăng tác động đến tâm lý, tình cảm của người bị thu hồi đất. Một bộ phận nhân dân chưa nhận thức đúng trong việc thực hiện các quyết định thu hồi đất của cơ quan Nhà nước có thẩm quyền. Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, các bộ phận liên quan (Trung tâm Phát triển quỹ đất, Phòng Tài nguyên và Môi trường, Văn phòng Đăng ký quyền sử dụng đất) dẫn đến tình trạng còn sai sót trong đo đạc thu hồi đất, giải quyết khiếu nại, thẩm định phương án bồi thường, chỉnh lý biến động… Một số dự án đã công bố quyết định phê duyệt phương án bồi thường nhưng phải trên 6 tháng sau thì chủ đầu tư mới có kinh phí để chi trả. Công tác tuyên truyền, giáo dục, phổ biến chính sách pháp luật về công tác bồi thường cho nhân dân, vận động nhân dân thực hiện chưa đến nơi đến chốn, dẫn đến tình trạng người dân không hiểu hoặc cố tình không hiểu để đưa ra yêu sách trái qui định Nhà nước. Sự điều chỉnh về chế độ, chính sách bồi thường (Nghị định 197, Nghị định 84, Nghị định 69 của Chính phủ) liên tiếp trong thời gian ngắn tạo nên tâm lý so bì, phát sinh khiếu nại trong nhân dân. Đối với dự án KCN Giao Long, An Hiệp (Châu Thành), diện tích thu hồi lớn, đa số các hộ dân bị thu hồi hết đất sản xuất, bị giải tỏa trắng nhưng khu tái định cư chưa được xây dựng, nên không giao đất theo đúng thời gian qui định…
Theo đồng chí Nguyễn Hải Châu - Giám đốc Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh, để giải quyết hiệu quả các vướng mắc nêu trên, khâu đầu tiên chính là tăng cường sự lãnh chỉ đạo của các cấp ủy, chính quyền địa phương trong triển khai thực hiện công tác bồi thường, GPMB. Cần thực hiện tốt công tác phối hợp giữa chủ đầu tư, trung tâm phát triển quỹ đất các địa phương và chính quyền cơ sở. Nêu cao hơn nữa tinh thần trách nhiệm của đội ngũ cán bộ làm công tác chuyên trách trong thực hiện kiểm kê, đo đạc, áp giá bồi thường nhằm hạn chế đến mức thấp nhất sai sót phải điều chỉnh, bổ sung phương án nhiều lần, làm chậm tiến độ GPMB và làm giảm lòng tin trong nhân dân. Tăng cường công tác giải quyết khiếu nại, không để đơn thư tồn đọng kéo dài. Tiếp tục thực hiện việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách về thu hút đầu tư, về thu hồi đất, về công tác bồi thường trong nhân dân một cách đầy đủ, sâu rộng, đi đôi với xử lý nghiêm các trường hợp cố tình vi phạm, động viên khen thưởng kịp thời các trường hợp thực hiện tốt. Đối với các dự án nâng cấp, mở rộng các tuyến đường giao thông, cần thực hiện song song với công tác quản lý hành lang đường bộ, nhất là vấn đề xử phạt vi phạm hành chính và kiên quyết cưỡng chế tháo dỡ để khôi phục lại hiện trạng ban đầu theo Luật Giao thông đường bộ.
Đồng chí Nguyễn Thành Phong - Bí thư Tỉnh ủy nhấn mạnh: Để thực hiện tốt công tác thu hồi đất GPMB, cần phải có sự chung tay của cả hệ thống chính trị. Trước mắt, cơ quan chủ quản phải tiến hành rà soát qui hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh, đặc biệt là các chương trình trọng điểm. Tiếp tục thực hiện hiệu quả công tác quảng bá, mời gọi đầu tư trong và ngoài nước đi đôi với tuyên truyền sâu rộng, hiệu quả trong khu dân cư về lợi ích, hiệu quả của các dự án đầu tư, kịp thời tổng kết kinh nghiệm của việc thực hiện công tác GPMB trên địa bàn thời gian qua. Bên cạnh việc nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ chuyên trách, phải nghiêm khắc phê bình, kiểm điểm xử lý các trường hợp (đơn vị, cá nhân) sai phạm để tạo môi trường thuận lợi đẩy mạnh công tác thu hút đầu tư trong thời gian trước mắt và lâu dài.
Bài 3: Hệ thống các giải pháp

Nhà máy than hoạt tính của Công ty TNHH Pica Việt Nam (DN FDI) vừa khánh thành đưa vào hoạt động trong KCN Giao Long tháng 12-2010. Ảnh: T.C
Từ nay đến năm 2020, Bến Tre sẽ xây dựng phát triển thêm các khu công nghiệp (KCN) gồm: KCN Giao Hòa 270ha, Giao Long - giai đoạn II 68ha, An Hiệp giai đoạn II 150ha (Châu Thành), Thanh Tân 200ha (Mỏ Cày Bắc), Phước Long 200ha (Giồng Trôm), Thành Thới 150ha (Mỏ Cày Nam) và Phú Thuận 270ha (Bình Đại). Để các KCN trên được tiến hành xây dựng đúng theo qui định và đưa vào hoạt động hiệu quả (đến năm 2020), vấn đề đặt ra cho cả hệ thống chính trị của tỉnh là hệ thống giải pháp tối ưu nào sẽ được triển khai thực hiện? Căn cứ theo Qui hoạch tổng thể về phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2020, tỉnh sẽ tập trung thu hút những dự án phát huy được thế mạnh nông nghiệp - thủy hải sản. Đó chính là phải xây dựng một danh mục dự án ưu tiên và lựa chọn các dự án thuộc lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ công nghiệp hóa trong nông nghiệp, phục vụ lĩnh vực nông nghiệp, có hàm lượng công nghệ và tri thức cao. Ưu tiên thu hút các dự án có sản phẩm có lợi thế cạnh tranh, có khả năng tham gia mạng sản xuất và chuỗi giá trị cả nước… Đó là nâng cao chất lượng công tác xúc tiến đầu tư, đẩy mạnh quảng bá thông tin, kết nối đầu tư. Kêu gọi các nhà đầu tư trong và ngoài nước tham gia đầu tư các dự án xây dựng hạ tầng khu, cụm công nghiệp để tạo quỹ đất sạch. Đó là rà soát các qui định hiện hành, có bổ sung sửa đổi các qui định về ưu đãi đầu tư trong và ngoài các khu, cụm công nghiệp…
Trong giai đoạn hiện nay, khi cả nước từ Trung ương đến địa phương đang tích cực thực hiện Nghị quyết 11 của Chính phủ về kiềm chế lạm phát, bình ổn giá cả, bảo đảm an sinh xã hội, thực hiện tái cấu trúc nền kinh tế thì công tác xúc tiến đầu tư, kêu gọi đầu tư lại càng phải được thực hiện chặt chẽ hơn, để không có hiện tượng “vườn không nhà trống”, nhà đầu tư nhận đất và chỉ xây dựng tạm thời, nhận đất để xí phần “địa thế vàng” và xây dựng cầm chừng chờ thời. Thực tế thời gian qua, công tác xúc tiến mời gọi đầu tư trên địa bàn tỉnh đã có tình trạng này, nhà đầu tư xây dựng cầm chừng, công trình đóng rong rêu… Và khi nhận được “giấy báo” của cơ quan chủ quản, với ý kiến chỉ đạo nếu không đẩy nhanh tiến độ sẽ thu hồi giấy phép, thì chủ đầu tư mới “tiếp tục” xây dựng. Hoặc tại 2 KCN Giao Long và An Hiệp, tính trung bình các doanh nghiệp “vào đây” đã vài tuổi nhưng tổng vốn đăng ký hoạt động mới giải ngân chưa được 40% đối với các DN có vốn đầu tư trong nước, chưa được 70% vốn FDI. Cơ quan quản lý sẽ thực hiện giải pháp gì để “giúp” các DN đẩy nhanh tiến độ giải ngân?
Trong hội nghị tổng kết công tác xúc tiến đầu tư giai đoạn 2006-2010, đồng chí Nguyễn Thành Phong - Bí thư Tỉnh ủy, nhấn mạnh một số vấn đề có thể coi là giải pháp nhằm thực hiện hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư cho thời gian tiếp sau trên địa bàn. Theo đồng chí Bí thư Tỉnh ủy, công tác xúc tiến, hỗ trợ đầu tư (do hai cơ quan Sở Kế hoạch và Đầu tư và Ban Quản lý Các khu công nghiệp đảm nhận) thời gian qua mới thực hiện tốt hai nội dung quảng bá thông tin và liên kết đầu tư, công việc hỗ trợ nhà đầu tư sau cấp phép thì chưa có cơ quan nào làm đầu mối thực hiện. Chính vì vậy đã dẫn đến tình trạng nhà đầu tư khi gặp khó khăn không biết tìm cơ quan nào “gỡ rối”. Vấn đề này cần được nghiên cứu, triển khai thực hiện ngay. Chưa có sự liên kết trong thực hiện công tác xúc tiến đầu tư (ở tất cả các bước, các khâu). Việc tổ chức thành lập cơ quan xúc tiến đầu tư độc lập là rất cần thiết và cấp bách trong tình hình hiện nay. Cơ quan này sẽ có trách nhiệm, thẩm quyền trong cung cấp thông tin, quảng bá, kết nối đầu tư và thực hiện các dịch vụ sau cấp phép đầu tư. Cơ quan này là đơn vị duy nhất chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện mọi công việc liên quan đến xúc tiến đầu tư, bao gồm cả trong và ngoài KCN. Thành lập cơ quan này cũng chính là thực hiện cải cách hành chính trong xúc tiến đầu tư, hạn chế phân tán thông tin, giải quyết thủ tục hành chính theo cơ chế “một cửa”. Thực tế thời gian qua, dự án đầu tư vào cồn Chài Mười (Bình Đại) dù đã được cấp giấy phép đầu tư nhưng đến nay vẫn chưa thực hiện được do quỹ đất tại đây, dù là đất công, nhưng địa phương đã giao khoán cho người dân địa phương. Nếu bây giờ muốn thu hồi lại nguồn đất này cũng đồng nghĩa với việc nhà đầu tư phải “ứng” ra 200 tỷ đồng. Việc nắm rõ nguồn thông tin từ cơ sở là rất quan trọng cho công tác xúc tiến đầu tư. Riêng đối với các chủ trương trong mời gọi đầu tư, ưu đãi thu hút đầu tư (đã ban hành) cần có nghiên cứu, bổ sung, chỉnh sửa cho phù hợp tình hình thực tế, hoặc loại bỏ những danh mục không cần thiết. Một vấn đề cũng rất quan trọng trong thực thi công tác thu hút đầu tư, chính là phải xây dựng danh mục ưu tiên kêu gọi đầu tư theo từng năm, nhằm sàng lọc các nhà đầu tư có khả năng tài chính thực sự, đầu tư vào các lĩnh vực, ngành nghề phù hợp với thực tế về nguồn nhân lực, nguồn nguyên liệu tại địa phương. Đối với các nhà đầu tư đăng ký dự án đầu tư nằm trong danh mục ưu tiên kêu gọi đầu tư sẽ không cần thông qua bước xin phê duyệt trên nguyên tắc (chấp thuận chủ trương). Xúc tiến ngay việc xây dựng và ban hành qui trình và thủ tục đầu tư thống nhất đối với các dự án ưu tiên mời gọi đầu tư, cũng như các dự án ngoài danh mục ưu tiên. Đẩy nhanh tiến độ qui hoạch chi tiết các KCN đã được Chính phủ phê duyệt. Thực hiện tốt các chính sách ưu đãi đã ban hành, đảm bảo đúng địa bàn, đúng đối tượng và công bằng. Để công tác thu hồi đất, giải phóng mặt bằng (GPMB) đặt kết quả cần phải có sự chung tay góp sức của cả hệ thống chính trị. Thực hiện GPMB phải song song với tập trung thực hiện là xây dựng khu tái định cư, thực hiện chế độ hậu GPMB, thăm hỏi, động viên nhân dân ổn định cuộc sống, tập trung sản xuất phát triển kinh tế gia đình. Kiện toàn các trung tâm xúc tiến kêu gọi đầu tư, tổ chức hội thảo xúc tiến đầu tư trong và ngoài tỉnh.
Đối với công tác thu hút đầu tư vào các KCN, thì nhiệm vụ trọng tâm là tập trung mọi nguồn lực, kêu gọi các thành phần kinh tế tham gia đầu tư xây dựng kinh doanh hạ tầng các khu, cụm công nghiệp nhằm tạo quỹ đất sạch cho nhà đầu tư thứ cấp. Tiến hành phân loại các lĩnh vực đầu tư theo mức độ ưu tiên phát triển, các lĩnh vực hạn chế phát triển để định hướng thu hút đầu tư cho phù hợp với tình hình thực tế tại KCN. Song song với việc xem xét ngành nghề của dự án phù hợp với mục tiêu thu hút thì việc lựa chọn dự án đầu tư vào các KCN cũng cần phải có các tiêu chí cụ thể, vấn đề ô nhiễm môi trường và sự tác động của dự án này đối với các ngành nghề khác của tỉnh. Cụ thể: đối với lĩnh vực chế biến hàng nông thủy sản và các ngành có giá trị gia tăng cao, sử dụng lao động hợp lý theo hướng chuyên môn hóa, vốn đầu tư trên mỗi ha đất tối thiểu là 20 tỷ đồng. Đối với ngành nghề khác vốn đầu tư mỗi ha đất thuê tối thiểu 40 tỷ đồng/ha. Giá trị sản xuất công nghiệp trên mỗi ha đất thuê là 70 tỷ đồng/năm. Nộp ngân sách Nhà nước trên mỗi ha đất thuê là 1 tỷ đồng/năm…
Chỉ thị 1617/2011 của Thủ tướng Chính phủ về việc tăng cường thực hiện và chấn chỉnh công tác quản lý đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới, có chỉ đạo các tỉnh, thành phố cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ. Theo đó, ưu tiên thu hút các dự án có công nghệ hiện đại, thân thiện với môi trường, sử dụng có hiệu quả nguồn tài nguyên…, tạo điều kiện và tăng cường liên kết với các doanh nghiệp trong nước; tập trung thu hút vào các lĩnh vực công nghiệp hỗ trợ, công nghiệp phục vụ nông nghiệp, dịch vụ khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo… |
Thay lời kết
Nếu tính từ năm 2007 và cả thời kỳ “nở rộ” các dự án đầu tư sau QĐ 03/2010 của UBND tỉnh, quan điểm xuyên suốt của lãnh đạo tỉnh là ưu tiên, thu hút đầu tư các chương trình hợp tác trong và ngoài nước với nguyên tắc hai bên cùng có lợi, đúng pháp luật và có tính khả thi, tính hiệu quả lâu dài. Tỉnh đã “dũng cảm” từ chối các dự án lớn (về xây dựng nhà máy thuộc da…) mà chất thải trong quá trình vận hành sản xuất ảnh hưởng đến môi trường.
Khâu nào cần gỡ trong công tác xúc tiến đầu tư? Khi chuẩn bị kết thúc loạt bài phóng sự nghiên cứu - hồ sơ về công tác xúc tiến đầu tư tại địa phương thì các ngành hữu quan đã vào cuộc để tháo gỡ những khó khăn vừa qua. Chìa khóa thực hiện cơ chế “một cửa tại chỗ” và “một cửa liên thông” là cẩm nang để “hóa giải” những hạn chế về tiến độ thẩm định, cấp phép đầu tư, tiến độ GPMB, tạo nguồn đất sạch thu hút các DN. Người Việt Nam xưa có tục ăn trầu. Ăn trầu để môi son má đỏ và sâu xa hơn là gắn kết thủy chung. Miếng trầu mở đầu câu chuyện. Đã có trầu ngon lại có cách mời trầu khéo, hấp dẫn thì khách khó tính mấy cũng chẳng đặng từ chối! Việc xúc tiến kêu gọi đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp thời gian qua chính là đã và đang thực hiện chủ trương tái cấu trúc nền kinh tế. Gia tăng và tạo điều kiện để khai thác, mở rộng các KCN trên địa bàn tỉnh chính là thay đổi tỉ trọng giữa ba khu vực (nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ) theo hướng tăng nhanh tỉ trọng công nghiệp; nâng cao chất lượng hoạt động xúc tiến đầu tư theo mục tiêu gia tăng giá trị sinh lợi trên một đơn vị diện tích và chuỗi giá trị khi DN được tạo điều kiện an tâm đổ vốn, đầu tư toàn lực và theo đuổi các chương trình dự án làm ăn của mình.
Trước yêu cầu đổi mới, thực hiện đồng bộ và hiệu quả công tác xúc tiến đầu tư, tỉnh cần khẳng định vai trò “nhạc trưởng”của Nhà nước khi chỉ đạo triển khai nhanh các quyết sách về tài chính, GPMB, về lựa chọn đối tác đầu tư vào ngành, nghề ưu tiên. Tín hiệu vui trong sự khởi đầu một quá trình thay đổi tư duy trong công tác xúc tiến đầu tư, ngày 20-11-2011, Công ty Cổ phần chế biến Thủy sản Huy Thuận đã khởi công xây dựng nhà máy chế biến thủy sản tại KCN Giao Long với diện tích cấp phép 1,7ha, tổng vốn đầu tư cho dự án là 225 tỷ đồng. Với sự khởi đầu tốt đẹp này, hy vọng trong năm 2012 sẽ có nhiều DN trong và ngoài nước không chỉ đến “coi mắt” mặt bằng, mà có những quyết định nhanh chóng hợp tác đầu tư trên địa bàn tỉnh Bến Tre. Có như vậy, địa phương không những giữ chân DN mà còn có thể tạo nên những hiệu ứng thu hút những dự án lớn, những nhà đầu tư lớn trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội, nhất là thực hiện kế hoạch mở rộng, xây dựng mới các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn tỉnh.