Đến rừng năm 1973

07/11/2014 - 07:17
Lớp hội họa giải phóng tại chiến khu miền Đông năm 1973. (Ký họa Trường Chăm).

Đến rừng, khi mà giây phút chuyển giao giữa rừng núi và đồng bằng, tôi đứng lặng người, cảm nhận một cảm giác sung sướng mình đã đến đây, được tận mắt nhìn về phía trước mặt là núi rừng hùng vĩ và phía sau lưng là đồng bằng rộng lớn giống như đôi bàn tay giang ra ôm trọn quê hương, đất nước.

Để đến rừng, tôi như chìm vào dòng nước lũ của Tháp Mười, vượt qua ngày đêm, vượt qua những chặng đường vất vả, vượt qua hàng chục con kênh rạch, đi trong mưa suốt đêm, không chỉ đồn bót giặc mà vượt qua những bãi mìn, ổ phục kích. Vượt qua, vượt qua tất cả, để hôm nay và giờ đây, một sự chuyển giao lịch sử giữa đồng bằng và rừng núi bắt đầu!

Vào rừng mới thấy những điều kỳ diệu mà trước đó chỉ nghe nói thôi, giữa hai sắc thái, hai không gian và hai màu sắc tương phản rõ rệt… Ban đầu thì vượt qua rừng chồi còn ở tầng thấp lưa thưa những cây tạp và dây leo nho nhỏ, nhưng vào tới rừng sâu thì các anh giao liên cho nghỉ khoảng 15 phút để hít thở, thích nghi dần với không khí loãng. Phía trước mặt vẫn là rừng. Đi càng lâu, càng vào rừng sâu thẳm, rừng cây cao ngẩng đầu những thân cây như: dầu, sao, thao lao… to lớn trung bình khoảng hai người ôm, thẳng tắp và đứng sừng sững. Rừng cao, cao đến nỗi những ngọn cây như ôm nhau che lấp cả bầu trời kín mít. Cho nên, ở rừng, muốn ngắm trăng thì phải đi xa ngoài trảng.

Khi vượt qua suối Sa Mát, đi chừng khoảng nửa đêm, chúng tôi mới tới trạm tiền tiêu của C100 (phòng Văn nghệ R), gặp được anh Hồng, anh Thành (đều quê Bến Tre). Thấy đoàn Bến Tre, các anh rất mừng. Vì vậy mà các anh sẵn sàng thức trắng đêm để săn thú rừng “trọng đãi”. Nhờ bữa ăn này mà anh em trong đoàn lợi sức thấy rõ.

Đến R (cứ của chiến khu rừng Tây Ninh). Đoàn tiếp tục đi, đi sâu mãi trong rừng già mới về đến cứ. Cứ là một lán đóng quân của B11 (phòng hội họa giải phóng miền Nam) gần trảng “cố vấn”. Khung cảnh đập vào mắt tôi là nhà của anh em cán bộ kháng chiến đều ở biệt lập, mỗi người một cái, nhà thì lợp bằng vải mủ, nhà thì lợp bằng tranh, có nhà kỳ công hơn lợp bằng lá trung quân - một loại lá có bảng to, dày và săn chắc. Điều rất đặc biệt tất cả hội trường lớn nhỏ đều lợp bằng lá trung quân, nhìn như lợp bằng ngói móc vậy.

Vì ở rừng lâu năm nên gặp chúng tôi - dân đồng bằng lên, các anh mừng lắm. Gánh tụi tôi có quà bằng thuốc thơm, trà hai chữ A, đặc biệt là có đế chính hiệu Tây Ninh. Đến chỗ học rồi, việc đầu tiên là tự làm nhà để ở. Nhận một dao rựa, một cái cưa cần cung bằng dây gùi, nói thật tôi hơi bối rối, rất may có Hải (cũng người Bến Tre, em vợ của họa sĩ Cổ Tấn Long Châu) phụ đẵn cây, cắt tranh lợp giúp. Các anh trong đoàn cũng “vần công” qua lại. Đó là anh Vĩnh Xuân, Xuân Hòa và anh Sơn Đèo, anh Chính Hạnh …

Lúc đó, ăn thì rất thiếu thốn, phần nhiều là ăn độn với mì, khoai, đậu phộng, đậu xanh… Thi thoảng được chia thịt trâu do các anh tiếp phẩm mua ngoài Sóc Miên về để dành ăn cả tháng hoặc hai, ba tháng. Mỗi bữa được cục thịt trâu muối bằng ngón tay út và canh rau, vậy mà ăn rất ngon! Còn việc học thì “quá giàu”, các thầy dạy đều là họa sĩ tên tuổi từ Bắc đến Nam như: họa sĩ Huỳnh Phương Đông, Lê Lam, Phạm Đỗ Đồng, Cổ Tấn Long Châu, Thanh Châu, Nguyễn Văn Kính, thầy Lê Hồng Hải, thầy Tấn Lực…

Chúng tôi gồm tất cả 16 học viên của các tỉnh đồng bằng như: Bến Tre, Tiền Giang, Vĩnh Long, Cà Mau, Đồng Tháp, Long An và các tỉnh miền Đông, trong đó có các anh là họa sĩ của quân đội về dự tập huấn sáng tác. Khóa học này có rất nhiều chuyện buồn vui. Buồn là xa nhà lâu quá, nhớ lại sự hy sinh, mất mát trên đường đi học… Nhưng vui thì nhiều hơn, được gặp các họa sĩ tên tuổi, gặp bạn bè bốn phương, đặc biệt là tận mắt nhìn sự lớn mạnh của cách mạng miền Nam, với niềm tin chiến thắng hơn bao giờ hết. Lớp học chia làm hai phần, phần chuyên môn cơ bản (6 tháng), phần tập huấn bồi dưỡng sáng tác và giảng dạy (3 tháng).

Lớp học chia tay vào đêm 9-9-1974 bằng một bữa rượu gùi muộn thịnh soạn. Chia tay, người về chiến trường, về đồng bằng, người ở lại cứ, người về đơn vị của mình để tiếp tục chiến đấu. Tất cả đều chúc câu: Hẹn ngày gặp lại! Và thật kỳ diệu, tất cả đều gặp lại trong ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, đất nước thống nhất, Nam Bắc một nhà, trong niềm vui bất tận.

HS. TRƯỜNG CHĂM

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN