Về Châu Thành, lần theo địa chỉ, tôi đã gặp một “lão dũng sĩ” chân đất. Anh đúng là người dũng sĩ trẻ năm xưa - Võ Thế Sang.
Tuy ở tuổi 65 nhưng dáng vẻ còn rất tráng kiện, phong cách rất “bộ đội”, đặc biệt đôi mắt vẫn còn thể hiện một pháo thủ chuyên nghiệp. Một con mắt mở to, một con mắt hơi nheo lại, anh như đang dán mắt vào “máy ngắm” của quá khứ, tái hiện những trận “thủy chiến” ác liệt trên sông Giồng Trôm mà anh đã góp phần nhận chìm chiến dịch “Hạm đội nhỏ trên sông”.
Anh tên thật là Võ Văn Hùng (Mười Hùng), nhưng cái tên Võ Thế Sang đã đi vào lịch sử như là một huyền thoại của chàng dũng sĩ diệt tàu Mỹ năm xưa, lúc chỉ mới mười chín, đôi mươi.
Đ/C Võ Thế Sang Sinh 1949 Dũng sĩ diệt tàu Mỹ, Dũng sĩ diệt Mỹ năm 1968.
(Thành tích: Bắn chìm 5 tàu Mỹ bằng 5 quả đạn B.41 và 2 quả diệt tàu thập ác). |
Ban đầu, anh gia nhập đội du kích xã. Sau đó, anh đăng ký đầu quân về Tiểu đoàn 516 và được phân công về đơn vị trợ chiến cho Tiểu đoàn. Nhờ tướng tá cao ráo, khỏe mạnh, tác phong nhanh nhạy, lại đẹp trai, có trình độ học vấn nên anh được Ban Chỉ huy Tiểu đoàn cấp khẩu B.41 xứng tầm và chuyển về đội săn tàu. Lúc này, Mỹ ngụy đang mở chiến dịch “Hạm đội nhỏ trên sông” (Giồng Trôm). Đội săn tàu của anh khoảng chừng một trung đội gồm có các khẩu pháo: DKZ 75 ly, DKZ 57 ly loại vác vai dễ cơ động truy kích địch, nhưng chỉ có B.40, đặc biệt B.41 là sát thủ lợi hại nhất. Chưa tròn một năm, anh đã bắn chìm và làm cháy trên 10 tàu chiến Mỹ, mỗi chiếc (tàu mỏ vịt) tối thiểu có 5 tên lính, tàu đầu bằng có khoảng một trung đội và tàu thập ác chừng một đại đội.
Trong các trận, có tính như “thủy chiến”, lần nào anh cũng bắn chìm và cháy tàu chiến Mỹ, nhưng chưa có trận nào anh nói là “đã” nhất như trận “hạ đo ván” 5 tàu chiến Mỹ bằng 5 quả đạn B.41. “Đo ván” có nghĩa là bắn tàu chìm và chúi đầu xuống nước và muốn thế thì phải luyện độ bắn đón rất chính xác. Thí dụ: Muốn bắn tàu chìm lỉm thì bắn mép trước tàu (nổ theo đà quán tính thì nó chúi sâu xuống đáy sông). Còn muốn bắn cháy thì bắn đón giữa thân, đạn sẽ trúng buồng lái và bốc cháy. Tuy rằng anh bắn chính xác tuyệt đối (5 quả = 5 tàu) trở thành công thức, nhưng vẫn tiếc vì lúc ấy anh trang bị tối đa là 5 quả B.40 hoặc B.41.
Trận thứ 2, cũng rất ấn tượng, tuy rằng phải bắn tới 2 quả mới chìm tàu thập ác (loại tàu đổ quân bậc trung, khoảng chừng một đại đội). Đó là chiếc tàu anh bắn chìm cuối cùng tại doi Hòa Lợi năm 1968 và chiến dịch “Hạm đội nhỏ trên sông” ở Giồng Trôm kết thúc.
Nhờ thành tích này, cuối năm 1968, anh được chọn dự Đại hội “Anh hùng chiến sĩ thi đua” cấp tỉnh. Anh là người đọc báo công thứ 2, chỉ sau Anh hùng chiến sĩ thi đua Minh Thủy (y sĩ Quân y tỉnh).
Rất tiếc khi trở về thăm nhà chuẩn bị để đi dự “Đại hội Anh hùng chiến sĩ thi đua cấp Quân khu”, do có kẻ mật báo nên anh bị lính quận Hàm Long bắt và đày ra Phú Quốc. Năm 1973, anh được trao trả ở Thạch Hãn - Quảng Trị. Từ đó đến nay, anh trở về sống đời thường của người nông dân bên hơn một mẫu vườn dừa ngút ngàn.