Về tăng trưởng kinh tế (GRDP)
Báo cáo chính trị đánh giá chung
về những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân, tôi thống nhất với nhận định là: “Tốc
độ tăng trưởng kinh tế, chuyển dịch cơ cấu, huy động các nguồn lực cho đầu tư
phát triển... chưa đạt chỉ tiêu Nghị quyết và còn thấp”. Chúng ta biết rằng, tăng
trưởng (GDP) của tỉnh 5 năm qua chỉ đạt 7,3% (nếu tính GRDP là 5,64%), mức này
chỉ gần bằng mức bình quân chung của cả nước (GDP cả nước là 5,82%). Nguyên
nhân tăng trưởng của tỉnh không đạt chỉ tiêu Nghị quyết được xác định rõ là do
nguồn đầu tư của tỉnh chưa đáp ứng nhu cầu, thu hút vốn đầu tư còn gặp nhiều
khó khăn, công nghiệp chưa tạo bước đột phá và sức cạnh tranh của doanh nghiệp
còn yếu. Trong cả nhiệm kỳ qua, Bến Tre chỉ huy động được vốn đầu tư toàn xã
hội đạt 83% so với Nghị quyết nên hệ thống kết cấu hạ tầng KT-XH chưa được đầu
tư đồng bộ, dẫn đến tỉnh chưa thu hút mạnh doanh nghiệp đầu tư.
Trước hết, tôi xin nói về tăng
trưởng GRDP: để đảm bảo tốc độ tăng GRDP giai đoạn 2015-2020 từ 7 - 7,5%, theo
tôi, các khu vực phải tăng như sau:
Khu vực nông lâm thủy sản (Khu
vực I): Tăng trưởng bình quân của khu vực I phải đạt ít nhất từ 3,6%/năm (mức
bình quân của cả nước từ 3 - 3,5%); trong đó, nông nghiệp tăng trưởng dao động
từ 3,5 - 3,8%/năm và thủy sản tăng 3,7 - 4,5%/năm. Tốc độ này theo tôi là đạt
nếu Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp được tập trung thực hiện; đi theo hướng
đầu tư sâu vào chuỗi giá trị, chú trọng đến chất lượng và chống thất thoát sau
thu hoạch; có sự gắn kết các bên, quan tâm phát triển thị trường nông sản trong
nước và có kế hoạch phòng ngừa rủi ro thiên tai và thích ứng với biến đổi khí
hậu.
Khu vực công nghiệp - xây dựng
(Khu vực II): Lĩnh vực công nghiệp - xây dựng đảm bảo tăng ít nhất từ
12,8%/năm. Theo tôi, chúng ta cần tập trung phát triển mạnh công nghiệp như:
tạo điều kiện cho doanh nghiệp sản xuất, chế biến để tăng sản lượng, tạo ra
những sản phẩm mới bên cạnh một số mặt hàng công nghiệp truyền thống hiện có;
đưa nhanh số doanh nghiệp đã được cấp phép đi vào hoạt động, nhất là các dự án
công nghiệp phụ trợ ngành may, điện gió, chế biến sản phẩm nông sản (nhất là
các mặt hàng tinh từ dừa). Để đảm bảo năng lực tăng thêm cho ngành Công nghiệp:
tỉnh phải mạnh dạn ưu tiên phân bổ nguồn vốn ngân sách thuộc thẩm quyền để đầu
tư ngay Khu Công nghiệp Phú Thuận, hoàn chỉnh hạ tầng 3 cụm công nghiệp điểm và
mời thêm nhà đầu tư hạ tầng có năng lực đầu tư thêm các khu công nghiệp còn lại
theo quy hoạch (không chỉ có 1 Khu Công nghiệp Phú Thuận) để tạo quỹ đất sạch
cho các dự án sản xuất mới.
Khu vực dịch vụ (khu vực III):
Khu vực III phải đạt thấp nhất từ 6,73%/năm. Các yếu tố góp cho tăng trưởng
giai đoạn tới có xuất khẩu. Tỉnh xác lập mục tiêu xuất khẩu 5,6 tỷ USD/5 năm.
Mục tiêu này chỉ đạt nếu ta đầu tư thêm hạ tầng các khu, cụm công nghiệp mới,
tăng nhanh ít nhất 50% số doanh nghiệp hiện có trong 5 năm. Chú ý phát triển
các dịch vụ mới như logistics, ngân hàng, bảo hiểm, dịch vụ xuất khẩu, đào tạo,
cung ứng lao động, phát triển dịch vụ trong nông nghiệp; đầu tư phát triển du
lịch. Các dự án được cấp phép trong lĩnh vực thương mại dịch vụ (các trung tâm
thương mại, đô thị...) sớm triển khai để tạo tiền đề phát triển dịch vụ, thu
hút du lịch, đưa tổng mức bán lẻ dự kiến tăng 17%/năm.
Về giải pháp huy động nguồn vốn đầu tư toàn xã hội phục vụ tăng
trưởng và phát triển KT-XH
Tăng trưởng của Bến Tre trong 5
năm 2010-2015 nhờ vào số lượng, nhất là vốn đầu tư, do huy động vốn không đạt
chỉ tiêu nên cũng ảnh hưởng đến chỉ tiêu tăng trưởng. Trong giai đoạn tới, tôi
dự báo tăng trưởng của tỉnh sẽ theo hướng chất lượng nhưng quan trọng vẫn là vốn
đầu tư; tôi đề xuất tỉnh chú ý hơn về tăng trưởng xuất khẩu và nên hướng khai
thác tối đa thị trường nội địa, nhất là cho các sản phẩm nông sản chính, có lợi
thế cạnh tranh (sản phẩm từ dừa, thủy sản, trái cây đặc sản, đàn bò, heo). Giải
pháp tập trung huy động vốn đầu tư toàn xã hội để phục vụ tăng trưởng là giải
pháp quan trọng nhất; dự kiến vốn huy động sẽ vào khoảng 80.200 tỷ đồng, tăng
38,2%. Vốn ngân sách nhà nước dự kiến khoảng 17.000 tỷ đồng, chiếm khoảng 22%
tổng vốn đầu tư toàn xã hội. Vốn của các thành phần kinh tế, vốn nước ngoài và
dân cư chiếm 78%. Vì vậy, đối với nguồn vốn này, cần có các giải pháp huy động,
hỗ trợ tốt nhất cho doanh nghiệp, hộ kinh doanh để họ bỏ vốn đầu tư. Tôi thống
nhất với giải pháp thứ 4 nêu trong Báo cáo chính trị, tuy nhiên cần tập trung
sâu vào các nhóm giải pháp như sau:
Đối với nhóm giải pháp về chính
sách: Tỉnh tập trung thực hiện tốt, hiệu quả Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư
sửa đổi năm 2014, đơn giản và minh bạch các thủ tục hành chính liên quan đến
đầu tư, kinh doanh (trong lĩnh vực cấp phép đầu tư, cho thuê đất đai, cấp phép
xây dựng, thủ tục miễn, giảm thuế). Thực hiện tốt kế hoạch cải thiện chỉ số
năng lực cạnh tranh cấp tỉnh (PCI); từng ngành, từng địa phương xem cải thiện
môi trường đầu tư, kinh doanh để nâng cao PCI là trách nhiệm, nghĩa vụ của mình
và có nhiệm vụ theo dõi, thực hiện tốt các thủ tục trước, trong và sau khi được
cấp phép; tăng cường hỗ trợ doanh nghiệp, nhà đầu tư sau giấy phép để triển
khai nhanh, hiệu quả dự án đầu tư; thực hiện tốt Chỉ thị số 19/CT-TTg của Thủ
tướng Chính phủ nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh; cải thiện môi trường đầu tư,
kinh doanh không chỉ trong tỉnh mà nhắm đến môi trường phát triển trong khu
vực. Trong khả năng của mình, tỉnh nghiên cứu dành một số ưu đãi cụ thể, nhất
là cho đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn; thực hiện tốt các chính sách ưu đãi
của Trung ương để kéo doanh nghiệp về nông thôn, thúc đẩy phát triển kinh tế
nông thôn; rà soát, điều chỉnh các quy hoạch, kế hoạch hiện có để các nhà đầu
tư, doanh nghiệp an tâm đầu tư lâu dài.
Tăng cường thu hút đầu tư thông
qua nâng cao chất lượng quy hoạch ngành và chuẩn bị dự án đầu tư; tổ chức các
hoạt động xúc tiến đầu tư phải dựa vào những chương trình, dự án ưu tiên đã xác
định trong định hướng 5 năm 2015-2020 và phải được chuẩn bị tốt của tỉnh; lựa
chọn nhà đầu tư, khu vực đầu tư nhằm hướng đến các dự án có chất lượng cao.
Nâng cao khả năng cung ứng dịch vụ của cơ quan xúc tiến và tăng cường sự phối
hợp đồng bộ giữa các sở, ngành, địa phương trong thu hút đầu tư, hỗ trợ doanh
nghiệp sau cấp phép.
Tăng cường thu hút đầu tư theo
các hình thức đối tác công tư (PPP), nhất là trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ
tầng KT-XH; xây dựng các khu, cụm công nghiệp, các dự án giao thông, điện, nước
có khả năng sinh lợi để khai thác tốt nguồn vốn của doanh nghiệp tư nhân.
Đối với nhóm giải pháp về tiếp
nhận đầu tư: Một trong những điểm nghẽn, yếu về thu hút đầu tư hiện nay của
tỉnh là khâu tiếp nhận đầu tư; nó thể hiện ở sự chuẩn bị quỹ đất sạch, đầu tư
kết cấu hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và thực hiện thủ tục hành chính.... Vì
vậy, ngoài các Khu Công nghiệp Phú Thuận, Cụm Công nghiệp Phú Hưng, Phong Nẫm
và An Đức phải được đầu tư ngay từ đầu nhiệm kỳ, tỉnh phải tìm thêm nhà đầu tư
khác có năng lực để đầu tư vào các khu, cụm công nghiệp còn lại, nếu không đầu
tư thì khó có khả năng tạo năng lực tăng thêm cho khu vực II (tăng trên
12%/năm).
Về hạ tầng điện, nước, để thu hút
doanh nghiệp về huyện, về nông thôn, tỉnh phải hoàn thiện trục hạ tầng giao
thông chính, nhất là các khu vực bên ngoài cụm công nghiệp, tuyến đường chính
vào trung tâm các xã (theo chuẩn nông thôn mới), nâng cấp, mở rộng hệ thống
cung cấp điện, nước các khu vực trung tâm thị trấn, cụm công nghiệp.
Về nguồn nhân lực, chú trọng đào
tạo nguồn nhân lực có tay nghề cao, có kỹ năng, kỷ luật lao động, được đào tạo
kỹ năng mềm (ngoại ngữ, tin học)... để đáp ứng tuyển dụng cho nhà đầu tư, nhất
là các dự án thâm dụng kỹ thuật và công nghệ.
Về thủ tục hành chính, trong một
số trường hợp, các sở, ngành, địa phương chưa sẵn sàng làm hết trách nhiệm,
ngại can thiệp vào công việc của nhau, thiếu phối hợp nhịp nhàng, đồng bộ nên
nhiều dự án đã được cấp phép nhưng chậm triển khai; cần phải cải thiện vấn đề
này để các dự án được cấp phép đi vào hoạt động nhanh hơn.
Đối với nhóm hỗ trợ phát triển
doanh nghiệp để nâng tính cạnh tranh: Dự báo trong giai đoạn 2015-2020, với
việc thực thi Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư sửa đổi năm 2014, số doanh
nghiệp gia nhập thị trường sẽ tăng mạnh, dự kiến tăng thêm ít nhất 50% số doanh
nghiệp hiện có. Vì vậy, tỉnh cần quan tâm hỗ trợ phát triển doanh nghiệp nhằm
nâng cao tính cạnh tranh như sau:
Một là, xem trọng việc huy động
nguồn vốn từ doanh nghiệp, người dân qua thực hiện tốt Luật Doanh nghiệp, Luật
Đầu tư sửa đổi năm 2014 và các luật kinh doanh chuyên ngành nhằm hỗ trợ doanh
nghiệp khởi sự kinh doanh, gia nhập thị trường nhanh chóng. Thực hiện tốt
chương trình cải cách hành chính, nhất là cắt giảm và hỗ trợ tốt nhất các thủ
tục trong lĩnh vực đất đai, đầu tư, xây dựng, thuế, đăng ký doanh nghiệp...;
nâng chất lượng mô hình “một cửa”, “một cửa liên thông”, nâng cao tinh thần,
thái độ phục vụ của đội ngũ cán bộ công chức khi tiếp người dân, doanh nghiệp
đến đầu tư, kinh doanh. Các ngành, địa phương xem trách nhiệm thu hút vốn đầu
tư ngoài ngân sách nhà nước là một nhiệm vụ quan trọng trong tình hình ngân
sách nhà nước dành cho đầu tư còn rất hạn chế.
Hai là, công tác quy hoạch ngành,
thông tin dự án đầu tư, quỹ đất sạch đảm bảo cho doanh nghiệp tiếp cận, triển
khai dự án. Đối với các dự án đã được cấp phép phải có sự hỗ trợ đồng bộ để nhà
đầu tư triển khai nhanh dự án, tháo gỡ kịp thời vướng mắc, khó khăn cho doanh
nghiệp; thực hiện tốt các chương trình ưu đãi đầu tư dành cho doanh nghiệp đầu
tư vào vùng có điều kiện KT-XH khó khăn, đặc biệt khó khăn, thực hiện tốt,
trách nhiệm đối với các chính sách về tín dụng, ưu đãi đầu tư vào nông nghiệp,
nông thôn.
Ba là, tỉnh cần có một kế hoạch
hỗ trợ doanh nghiệp được thực hiện thống nhất nhằm giúp doanh nghiệp một cách
tập trung, hiệu quả; giao cho một cơ quan chuyên trách triển khai thực hiện,
liên kết các khâu thuộc các sở, ngành trong một chuỗi sản phẩm của doanh
nghiệp; lựa chọn một số ngành hàng, sản phẩm chủ lực của tỉnh để phát triển
theo chuỗi giá trị có khả năng cạnh tranh cao, gia nhập được vào các chuỗi giá
trị toàn cầu; nâng cao năng lực cạnh tranh, hội nhập cho nhóm doanh nghiệp dẫn
đầu của tỉnh (Leading business group).
Bốn là, tổ chức hiệu quả các hoạt
động xúc tiến thương mại, tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm cho
doanh nghiệp; nên quan tâm mở rộng thị trường nội địa; năng lực dự báo thị
trường của doanh nghiệp và Nhà nước phải tốt hơn; tạo điều kiện cho doanh nhân
Bến Tre, nhà quản lý tham gia các sự kiện, diễn đàn doanh nghiệp có tầm vóc,
quy mô lớn để doanh nghiệp có thể nghĩ xa hơn, luôn sáng tạo, đổi mới.
Tóm lại, dự báo tình hình kinh tế
thế giới có chiều hướng tốt, kinh tế trong nước tiếp tục ổn định và duy trì mức
tăng trưởng từ 6,5 - 7% trở lên, tôi tin rằng, Bến Tre hoàn toàn có khả năng
đạt chỉ tiêu tăng trưởng GRDP từ 7 - 7,5% như trong dự thảo Nghị quyết Đại hội
X bằng cách tỉnh tập trung thực hiện tốt các giải pháp huy động nguồn lực đầu
tư phục vụ tăng trưởng và phát triển KT-XH nêu trên.