Đường ra cầu cảng sáng choang. Sóng, gió và cơn say tàu từ chiều chưa dứt làm người đi chần chừ. Lịch trình dày đặc, công việc tính bằng phút và có những cuộc hành trình phải lênh đênh trên biển 12 giờ đồng hồ mới chạm tới đảo. Các anh ở Bộ Chỉ huy Vùng nhắc khéo: Nếu không khỏe thì ở lại. Nhưng đã đi là phải đến, tất cả đều kiên quyết, chỉ trừ một vài người do lực bất tòng tâm. Đoàn Bến Tre cũng có một anh phải ở lại An Thới vì huyết áp cao đột ngột.
Đúng 11 giờ, con tàu trọng tải 450 tấn tút còi, rẽ sóng giữa đêm đen. Càng xa bờ, sóng càng mạnh. Phần đã quen, phần có giường để nghỉ nên mọi người cảm thấy khá thoải mái. Gần 5 giờ sáng, tàu đến quần đảo Thổ Chu nhưng gió cấp 5, sóng khá lớn nên phải neo tàu đợi đến sáng… Bình minh trên đảo Thổ Chu đẹp lạ lùng. Nhìn từ phía xa, Thổ Chu như con sư tử trầm mình giữa biển mênh mông. Trời sáng bảnh. Tàu có trọng tải lớn cập bến, thật chẳng dễ dàng chút nào. Phải mất hơn một giờ với nhiều thao tác chuyên môn của đội ngũ thuyền viên, tàu mới cập được bến an toàn. HQ27 cũng chính là con tàu đã từng được Bộ Quốc phòng khen thưởng đặc biệt về nhiệm vụ vận tải và cứu hộ biển trong năm 2008…
Quần đảo Thổ Chu cách huyện đảo Phú Quốc 105km và tỉnh Kiên Giang 200km. Diện tích tự nhiên 1.396ha, gồm 8 đảo lớn nhỏ, trong đó Thổ Chu là đảo lớn nhất (10km2). Rải rác chung quanh là các đảo nhỏ: hòn Chim, hòn Nhạn, hòn Kèo Ngựa, hòn Từ, hòn Cao Cát, hòn Mô và nhiều hòn nhỏ khác. Thổ Chu là đảo cấp I. Tiền thân của Bộ Chỉ huy Hải quân Thổ Thu là Tiểu đoàn 561. Ngày 27-5-1975, Thổ Chu được giải phóng và đó cũng là ngày truyền thống của đơn vị Hải quân trên đảo. Ngoài lực lượng Hải quân, Thổ Chu còn có Bộ đội Biên phòng và Hải đăng.

Ông Trần Dương Tuấn - Phó Chủ tịch Hội đồng nhân dân tỉnh (hàng đầu, bên phải) và Đại tá Phạm Quốc Phòng - Chính ủy Bộ Chỉ huy Bộ đội Biên phòng tỉnh thăm Đồn Biên phòng 770 trên đảo Thổ Chu. Ảnh: PY
Trụ sở chính của Bộ Chỉ huy Hải quân cách cầu cảng Bãi Ngự khoảng 500m, gần khu chợ nhỏ. Từng dãy nhà cao to trải dọc phía sau thảm sân rộng xanh cỏ, trông rất hữu tình và chẳng có cảm giác đang ở giữa đảo chơi vơi. Nhưng tất cả chỉ là khoảnh khắc khi chúng tôi cùng với đoàn một vòng quanh đảo. Chỉ có xe nhà binh và xe 15 chỗ nên một số nhà báo và mỗi đoàn cử một người để đi thăm các chốt trạm. Men giữa rừng, lên tận đỉnh núi cheo leo, xe xóc đến mức người cứ lắc lư như đang vờn sóng biển. Anh tài xế bảo vậy là còn may vì trời nắng, nếu mưa chỉ có lội bộ. Còn lính ở đây nắng mưa gì cũng đi bằng xe… chân thôi.
Mỗi ngày máy phát điện của từng đơn vị phát được mấy tiếng phục vụ điện sinh hoạt. Tắm giặt thì có suối Tiên cách các đơn vị gần nhất cũng khoảng 200 mét leo núi. Ngoài thực phẩm có được do tự sản xuất, hàng tháng hoặc quí sẽ có tàu từ Bộ Chỉ huy Vùng chuyển lương thực, thực phẩm tới. Đời lính giữa đảo, vật chất, điều kiện phục vụ có thể thiếu, nhưng tình người luôn đầy ắp. Những chiến sĩ trẻ như Minh, Luân, Lâm Dêl (quê Sóc Trăng) đầu quân tại Đơn vị N04 theo lệnh nghĩa vụ quân sự. Tất cả đều hơn một năm ở đây, chưa về phép lần nào. “Nhớ nhà, nhất là khi có người từ đất liền ra như thế này lại càng nhớ”, nhưng cả ba chiến sĩ đều có nguyện vọng được tiếp tục phục vụ quân đội sau khi giải ngũ. Lâm Dêl (dân tộc Khmer) nói: “Sống trong quân ngũ, tôi thấy mình lớn hơn trong cách đối xử với đồng chí anh em, chững chạc hơn khi nghĩ về gia đình. Tôi thấy yêu biển, yêu quê hương mình hơn”.
Tình yêu của lính được hun đúc từ chính những người gắn đời mình với quân đội. Thượng úy Hoàng Quốc Hùng – Chính trị viên Đơn vị N03 đã 9 năm phục vụ trên đảo này. Cũng ít lần về đất liền nên cho đến tận bây giờ, dù đã chạm tuổi ba mươi nhưng anh vẫn là “lính phòng không”. Anh cho biết đơn vị luôn tạo điều kiện giải trí cho cán bộ, chiến sĩ. Cũng có bóng bàn, bi-da, bóng chuyền và trong điều kiện máy phát điện chỉ phát ngày có mấy tiếng nên mỗi tuần anh em được hát karaoke 2 giờ. “Làm sao cho anh em có cuộc sống tinh thần thoải mái là nhiệm vụ của chúng tôi. Cán bộ là niềm tin, là chỗ dựa tinh thần để anh em cùng hiệp lực, sẵn sàng đảm đương nhiệm vụ trong bất kỳ tình huống, hoàn cảnh khó khăn nào”.
Trung úy Nguyễn Văn Thường, Đơn vị N04 hăm hở khoe với chúng tôi rằng vợ anh vừa sinh được con trai. Quê Thái Bình, anh và cô giáo mầm non Phan Thị Huệ quen nhau từ thuở học trò. 6 năm công tác ở đảo Thổ Chu, không một lần về quê và tình yêu của hai người được đong đầy qua những cánh thư. Và chuyện tình lãng mạn ấy kết thúc bằng đám rước dâu. Cô giáo Huệ theo chồng về dạy lớp mầm non mới mở đầu tiên trên đảo Thổ Chu vào năm 2007. Nhưng lính trên đảo này chẳng mấy người may mắn như Trung úy Thường. Đại úy Lê Hồng Chung – Đại đội trưởng Đơn vị N03, quê Thanh Hóa, đầu quân ở Thổ Chu từ năm 2000. Sáu năm cưới vợ, cũng đôi lần về phép nhưng đến bây giờ anh vẫn chưa có con ẵm bồng. Đó là nỗi lòng canh cánh của người lính đảo xa xôi… Nhưng tất cả cùng sống, chiến đấu và làm việc cùng với khẩu hiệu “Tàu, đảo là nhà, biển là quê hương”.
Hải quân có 11 đơn vị đóng quân độc lập. Theo Chỉ huy trưởng đảo Thổ Chu, Thượng tá Nguyễn Văn Đồng, nhiệm vụ của đơn vị là nâng cao sức mạnh tổng hợp, sức chiến đấu của các lực lượng; nâng cao cảnh giác cách mạng, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc đảo Thổ Chu, hòn Từ và các đảo lân cận.
Cùng với Hải quân, Bộ đội Biên phòng thuộc Đồn Biên phòng 770 đảm đương nhiệm vụ bảo vệ an ninh trật tự khu vực biên giới biển. Trên đảo này có 3 điểm là chốn dừng chân lý tưởng của các tàu đánh cá. Bãi Ngự ở phía Tây Bắc đảo Thổ Chu, được núi bao quanh tạo thành hình chữ U chắn gió rất an toàn cho tàu neo đậu. Mùa gió nồm, từ hướng Đông Nam thổi đến, các tàu thuyền đổ về Bãi Ngự. Còn mùa gió chướng, từ Tây Nam thổi về thì tàu thuyền lại chuyển sang đậu ở Bãi Vinh hoặc Bãi Vòng. Dân đi tránh gió, bộ đội cũng lụi hụi tay xách nách mang giúp đỡ bà con. Theo Trung úy Trần Văn Oanh - Đội phó Trinh sát, cái khó của Đồn là trang thiết bị phục vụ tìm kiếm, cứu hộ của đơn vị lạc hậu hơn so với các tàu đánh cá. Vì thế có nhiều trường hợp có tin báo bão nhưng không liên lạc được với tàu của dân đang hoạt động ngoài biển. Tuy nhiên, do làm tốt công tác dân vận, hầu hết những ngư dân trên đảo hoặc thường trú lại đảo, Bộ đội Biên phòng đều có số điện thoại liên lạc với gia đình, phòng khi sóng to, gió lớn. Chính sự nhiệt tình, đầy trách nhiệm này mà lính biên phòng rất được lòng ngư dân nơi đây.
Trạm ra-đa ở Thổ Chu, Nam Du (Kiên Giang), hòn Khoai, hòn Chuối (Cà Mau)... được ví như những “mắt biển”. “Mắt biển” quét sóng liên tục 24/24 giờ nhằm phát hiện các mục tiêu lạ trên không và tàu lạ nước ngoài xâm phạm hải phận Tổ quốc, đồng thời tham gia công việc tìm kiếm cứu hộ cứu nạn giúp ngư dân. Đời lính trên đỉnh núi cheo leo giữa trùng khơi như luôn gắn mình cùng thử thách…
KỲ 4: “MẮT BIỂN”