Tuy vậy, trong sản xuất còn xảy ra tình trạng lạm dụng,
tận dụng tài nguyên cho tăng trưởng. Tỷ lệ nguyên liệu, năng lượng sử dụng quá
cao cho 1 đơn vị GDP. Công nghệ lạc hậu, gây ô nhiễm có tính phổ biến. Mức độ ô
nhiễm môi trường nghiêm trọng. Nếu tiếp tục duy trì thì nguồn tài nguyên thiên
nhiên cạn kiệt; thế hệ sau phải gánh chịu hậu quả nặng nề. Chúng ta cần có giải
pháp, chiến lược hành động cho vùng ĐBSCL trên cơ sở làm rõ các căn cứ, kinh
nghiệm của thế giới và đề xuất ý tưởng phù hợp với điều kiện thực tế của vùng.
Đây là ý kiến phát biểu của ông Nguyễn Văn Hiếu - Thứ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu
tư tại Hội nghị “Hướng tới một nền sản xuất xanh bền vững” do Bộ Kế hoạch và Đầu
tư phối hợp với Ban chỉ đạo Tây Nam Bộ tổ chức, nằm trong khuôn khổ Diễn đàn Hợp
tác kinh tế ĐBSCL diễn ra tại Sóc Trăng (MDEC-Sóc Trăng 2014).
* PGS.TS Nguyễn Thế
Chinh - Viện Chiến lược, Chính sách Tài nguyên và Môi trường thuộc Bộ Tài nguyên
và Môi trường: Nhiều
quốc gia trên thế giới đã và đang chuyển sang một nền “kinh tế xanh” hướng đến
tăng trưởng, phát triển bền vững thay thế cho nền kinh tế cũ “kinh tế nâu”. Vùng
ĐBSCL nói riêng và Việt Nam
nói chung đang đứng trước bối cảnh suy thoái về tài nguyên và môi trường, chịu ảnh
hưởng của biến đổi khí hậu, thời tiết cực đoan, nước biển dâng nên việc hướng đến
nền kinh tế xanh là cần thiết.
Có 2 cách để hướng đến tiêu dùng xanh và định hướng sản xuất
xanh cho nền kinh tế là đầu tư cho đổi mới công nghệ, tái sử dụng và tái chế thải.
Nếu chúng ta tiếp tục dựa vào cách thức phát triển cũ là khai thác tài nguyên
thô thì sản phẩm không thể cạnh tranh được với các nước trong khu vực và thế giới.
Trong lĩnh vực nông nghiệp, công nghiệp và một số phương tiện giao thông bắt đầu
xuất hiện các sản phẩm xanh thân thiện môi trường nhưng chưa nhiều. Để đạt được
mong muốn trong tương lai hướng đến một nền kinh tế xanh cần nhiều nỗ lực, phát
huy tốt nội lực, không rập khuôn theo bất cứ nước nào. Cần tuyên truyền, giáo dục,
nâng cao nhận thức, ý thức của người dân đối với tiêu dùng xanh và sản phẩm
thân thiện với môi trường. Đổi mới cơ chế chính sách, hoàn thiện thể chế kinh tế
thị trường, tạo lập thị trường cho tiêu dùng xanh, lấy thị trường làm động lực
thúc đẩy sản phẩm xanh để lôi kéo và thu hút sản xuất xanh đối với doanh nghiệp.
Tiêu dùng xanh và sản xuất xanh nên bắt đầu từ nông nghiệp và du lịch sinh thái
để khai thác ưu thế nhiệt đới ẩm gió mùa, năng suất sinh khối cao, sản phẩm
nông nghiệp đa dạng và cảnh quan thiên nhiên đẹp. Nguồn vốn đầu tư để đổi mới
công nghệ và phát triển những ngành nghề, lĩnh vực mới hướng đến tạo ra sản phẩm
cho tiêu dùng xanh phải xuất phát từ thực lực hiện có của địa phương. Tăng cường
hơn nữa và mở rộng hợp tác quốc tế trong sản xuất và tiêu dùng xanh, nhất là những
hoạt động có tính chất giảm thiểu tác động của biến đổi khí hậu.
* Tiến sĩ Võ Trí Thành
- Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương: Tăng trưởng xanh là mô hình không
có lựa chọn nào khác, song cũng đầy thách thức. Nếu tiếp tục duy trì “kinh tế
nâu” thì thiếu tỉnh táo và không bền vững. Quan niệm “tăng trưởng trước, dọn sạch
sau” rất tốn kém và có thể quá muộn để sửa sai. Bây giờ, vấn đề cần hành động
ngay: Môi trường là một loại vốn, cần được đóng góp cho tăng trưởng, phải được
tính đến, được đầu tư và sử dụng hiệu quả. “Kinh tế xanh” giúp người dân có điều
kiện sống tốt hơn.
Chính phủ, với tư cách là người tiêu dùng lớn nhất, phải đi
đầu trong mua sắm hàng hóa và dịch vụ “xanh”. Sử dụng cơ chế thị trường khuyến
khích các tác nhân kinh tế “nội hóa” chi phí môi trường, xã hội và chuyển giao
công nghệ xanh. Khuyến khích thuế cần áp dụng cho sản xuất kinh doanh và tiêu
dùng sản phẩm xanh. Cắt giảm những trợ cấp sản xuất làm tiêu thụ quá mức năng
lượng. Cải cách thể chế kinh tế theo hướng thị trường, phát triển kết cấu hạ tầng,
nguồn nhân lực. Quản lý quá trình đô thị hóa. Bảo vệ môi trường, ứng phó thích
hợp với biến đổi khí hậu. Hoàn thiện cơ bản hệ thống an sinh xã hội…
* Thạc sĩ Huỳnh Thế Du - Gảng viên chính tại Chương
trình giảng dạy kinh tế Fulbright: Nhắc đến tăng trưởng xanh gợi ra hình ảnh những người trong
làng thả gia súc của mình để ăn cỏ ở cánh đồng chung càng nhiều càng tốt. Kết
quả là cỏ không mọc kịp và cả làng cùng gánh chịu hậu quả. Lúc này, cộng đồng mới
nghĩ đến việc phải có thiết chế vừa chính thức vừa không chính thức để đảm bảo
cho việc sử dụng cánh đồng cỏ sao cho có lợi cho cả cộng đồng trong dài hạn.
Tăng trưởng xanh được xem là một công cụ để đạt mục tiêu phát triển bền vững.
Thực tế, xử lý mâu thuẫn lợi ích riêng của cá nhân và lợi ích chung của tập thể
là vấn đề cốt lõi để có thể tạo ra phát triển bền vững. Vấn đề đang được quan
tâm là làm sao để các cá nhân giảm thiểu các hành động đi ngược lại lợi ích tập
thể.
Ba trụ cột của xã hội gồm: kinh tế thị trường, nhà nước và
xã hội dân sự. Các doanh nghiệp là nòng cốt của kinh tế thị trường, tạo phần lớn
của cải cho xã hội và luôn hướng đến mục tiêu tối đa hóa lợi nhuận trước mắt,
không có động cơ vì cái chung. Nhà nước phải đi tiên phong trong tăng trưởng
xanh. Chỉ có chính sách của Nhà nước và áp lực từ công chúng hay từ khu vực dân
sự mới có thể giảm thiểu những hành vi gây tổn hại đến cái chung. Bên cạnh đó,
các quy tắc ứng xử không thành văn nhưng được cộng đồng thừa nhận góp phần quan
trọng sử dụng các nguồn tài nguyên, nhất là các nguồn tài nguyên không thể tái
tạo một cách tiết kiệm và hiệu quả.
* PGS.TS Nguyễn Văn
Sánh - Viện trưởng Viện Nghiên cứu phát triển ĐBSCL: Đặt vấn đề liên kết vùng phát triển
thương hiệu lúa - gạo ít khí thải nhà kính qua tham gia “4 nhà” góp phần tăng
trưởng xanh vùng ĐBSCL. Thời gian qua, liên kết “4 nhà” được triển khai một số
tỉnh ở vùng ĐBSCL đã đem lại kết quả. Mô hình “1 phải, 6 giảm” (phải sử dụng giống
lúa xác nhận để sản xuất lúa hàng hóa, giảm lượng giống gieo sạ, phân bón, thuốc
bảo vệ thực vật, chi phí bơm tưới, thu hoạch và thất thoát sau thu hoạch) đã
tăng năng suất lên 11%, hiệu quả kinh tế cao 40%, tiết kiệm nước 48%, giảm khí
thải từ 25-40%/vụ so với canh tác truyền thống. Vụ gieo sạ đạt hiệu quả kinh tế
cao, được cộng đồng nông dân trồng lúa chấp nhận. Đây cũng là cơ hội nâng cấp
chuỗi giá trị và thương hiệu lúa gạo phát triển xanh và ít khí thải cho vùng
ĐBSCL. Nông dân được nâng cao năng lực thông qua kỹ thuật canh tác lúa “1 phải,
6 giảm”. Dòng sản phẩm lúa gạo ít khí thải nhà kính đã kết nối với thị trường
tiêu thụ. Việc giảm khí thải nhà kính, môi trường nước được cải thiện và tiết
kiệm hoàn toàn phù hợp với bối cảnh ứng phó biến đổi khí hậu.
Hướng tới, các tỉnh vùng ĐBSCL cần quan tâm phân tích nhu cầu
thị trường; đề án thương hiệu quốc gia, vùng và địa phương; xây dựng thể chế, tổ
chức và chính sách đế tiếp cận liên kết vùng về thị trường và thương hiệu lúa sạch,
tiếp cận liên kết vùng và tham gia “4 nhà” tạo thương hiệu lúa - gạo phát triển
xanh ĐBSCL, hướng tới nền nông nghiệp xanh - ít carbon và sản phẩm gạo sinh học.
* PGS.TS Trần Đình
Thiên - Viện trưởng Viện Kinh tế Việt Nam: Hội nhập tạo ra cơ hội rất lớn cho
Việt Nam.
Trên thế giới, rất ít đối thủ cạnh tranh nổi lúa gạo của Việt Nam. GDP Việt Nam đặt vào
nông nghiệp cũng chính là đặt vào vùng ĐBSCL. Thế nhưng vùng ĐBSCL đang đứng
trước thách thức của biến đổi khí hậu. Sản phẩm xuất khẩu đòi hỏi ngày càng cao
về tiêu chuẩn kỹ thuật. Nông nghiệp tiêu thụ nhiều tài nguyên và năng lượng
nhưng giá thành sản phẩm chưa cao. Ở Nhật Bản, giá 1kg gạo cao gấp 10 lần so với
Việt Nam.
Cho nên, việc thay đổi tư duy trong nông nghiệp là cần thiết. Công nghiệp,
trong đó có công nghiệp chế biến nông sản, cũng cần sát cánh cùng nông nghiệp để
phát triển. Hội nghị hướng tới một nền sản xuất xanh bền vững, với sự tham gia
của đại diện các tổ chức quốc tế, chuyên gia kinh tế, nhà quản lý, các bộ,
ngành Trung ương cùng đại biểu các tỉnh, thành phố đã mở ra tầm nhìn, quyết định
quan trọng cho vùng ĐBSCL. Các ý kiến tại hội nghị là cơ sở quan trọng để Chính
phủ có cơ chế chính sách hợp lý đưa nông nghiệp vùng ĐBSCL nói riêng và Việt Nam nói chung
phát triển đẳng cấp mới, hướng tới một nền sản xuất xanh bền vững.