Kỳ 1: Tư Cồ -“dũng sĩ” diệt chuột

11/01/2010 - 09:14
Ông Tư Cồ bên chiếc bẫy “máy bay”. Ảnh: H.Đ

Sống bằng nghề bẫy chuột dừa từ lúc tuổi còn trung niên, đến nay đã hơn 30 năm, nhưng vẫn chung thủy với nghề này. Mỗi ngày, với số tiền kiếm được khoảng mười ngàn đồng, ông phải lo cho cả gia đình có bốn miệng ăn gồm bản thân ông, người vợ mù lòa, đứa con gái bị khù khờ và đứa cháu ngoại không có cha. Người ấy là Lê Văn Tư (thường gọi Tư Cồ) 73 tuổi, ngụ ở ấp 3, xã Thạnh Phú Đông, huyện Giồng Trôm, Bến Tre.

Dẫn đường tôi tới nhà ông Tư, bí thư Chi bộ ấp 3 Lê Văn Góp nói vui: “Bẫy chuột lâu năm cỡ như ông Tư đây, theo tôi, chắc được phong là “dũng sĩ” diệt chuột rồi đó”. Ông cụ bị lãng tai nặng, anh Hai Góp bảo phải nói cho lớn thì ông mới nghe. Biết ông Tư tuổi Tý, tôi hỏi cơ duyên nào khiến ông gắn bó với nghề bắt chuột, ông Tư nói: “Nghèo quá, làm để kiếm chén cơm… riết rồi quen”. Lúc đầu, ông chỉ bẫy chuột quanh xóm. Sau đó,  đi bẫy ở các vườn dừa trong xã, rồi đến những xã khác như Phước Long, Tân Lợi Thạnh, Long Mỹ... toàn là đi bộ. Những khi ấy, ông ở nhờ nhà của chủ vườn chừng hai, ba ngày sau mới đem tiền về nuôi vợ con. “Đối với tôi, được chừng hai, ba chục ngàn đồng thì xem như là nhiều rồi”, ông Tư cười hiền.
Hàng ngày, khoảng hơn 13 giờ là ông Tư quảy bộ đồ nghề gồm hơn hai chục bẫy “máy bay” (loại bẫy chuột xưa làm bằng tre có hình dạng giống như chiếc máy bay) cùng vài cây trúc (dùng để móc bẫy lên tàu dừa) lên đường. Nhiều người thắc mắc vì sao ông Tư không chuyển qua bẫy lồng, được làm bằng kẽm, đặt dưới đất cho tiện, lại bắt được chuột sống. Đơn giản chỉ vì một lý do duy nhất: ông không có tiền để mua bẫy lồng. Theo giá thị trường, mỗi chiếc bẫy lồng được bán từ tám đến mười ngàn đồng. Còn bẫy tre “máy bay”, ông Tư có thể tận dụng phế liệu để làm nên. Vậy là, ngoài chung thủy với nghề bẫy chuột, ông Tư cũng thủy chung với chiếc bẫy cổ lỗ sĩ của mình. Bí thư Hai Góp bật mí với tôi: “Ông Tư đặt bẫy tre này bất tiện lắm, vì phải treo bẫy lên cao, rất khó dính chuột. Nếu có, lúc mình đi thăm thì nó đã chết ngắt rồi, đâu có bán thịt chuột được?”. Nghe chuyện, bà Bốn (vợ ông Tư) rướn đôi mắt về phía chúng tôi nói: “Chừng vài bữa là tôi nghe  ổng nói mất bẫy vì bị chó tha hoặc rớt mương trôi mất, rồi ổng lại làm tiếp cái khác”. Bà cho biết, mỗi khi trái gió trở trời phải ở nhà không đi bẫy chuột được, ông Tư bồn chồn không yên vì rầu và lo cho hai bữa cơm của gia đình. Những lúc đó, nhờ bà con chòm xóm giúp đỡ, khi thì lon gạo, lúc thì con cá hoặc chén muối lay lất sống qua ngày. Sực nhớ lại chuyện xưa, bà Bốn kể về thời trung niên của chồng (bấy giờ bà chưa bị mù), cũng  nhờ cái bẫy “máy bay” này mà mỗi ngày ông bắt được trên chục con chuột dừa. Tuy tiền công không nhiều nhưng nó là rất quý đối với gia đình, nuôi sống cả nhà mấy chục năm qua.
Vợ chồng ông Tư có ba người con (hai gái, một trai). Khổ nỗi, hai người con gái bị khờ từ nhỏ. Bất hạnh lớn đến với gia đình ông khi cô H. (con gái đầu lòng) vừa tròn  hăm hai tuổi. H. yêu một chàng trai (ngụ thị xã Bến Tre, nay là TP. Bến Tre) và có thai nhưng bị gia đình chàng trai phản đối. Quẫn trí, H. cùng người yêu uống thuốc rầy tự vận chết mang theo giọt máu của mình. Thương tình, chòm xóm đã làm mộ chôn họ bên nhau. Sau sự việc đau lòng này, người con trai kế của ông Tư bỏ đi TP.HCM làm thuê, rất ít khi về quê. Còn cô gái út, hiện đang ôm đứa con mới hơn bảy tháng tuổi mà không có cha. Thế là, đôi vai của ông Tư lại thêm “oằn” gánh nặng. Hộ ông Tư được xếp hộ nghèo. Bão số 9 năm 2006, nhà ông bị sập và được Nhà nước hỗ trợ năm triệu đồng để cất lại, chỗ ở của gia đình ông xem như tạm ổn. Hiện tại, mỗi ngày ngoài số tiền khoảng mười ngàn đồng kiếm được từ nghề bẫy chuột dừa (nhưng không ổn định), mỗi tháng bà Nguyễn Thị Bốn (vợ ông Tư) bị mù nên được trợ cấp 120 ngàn đồng. Bình quân, với nguồn thu khoảng bốn trăm ngàn đồng hàng tháng, gia đình ông Tư phải gói ghém để mà sống. Bí thư Hai Góp bộc bạch: “Ấp này, mỗi khi có người đến cứu tế hay trợ cấp, tôi đều dành ưu tiên cho gia đình ông Tư. Ngặt nỗi, ổng thì ngày càng già yếu, còn bà Tư và đứa con gái thì…”, Hai Góp nghẹn lời không nói tiếp. Tôi hiểu, đây không phải là nỗi lo của riêng anh.
Tạm biệt Thạnh Phú Đông, tôi nhớ đôi tay run run của ông Tư khi làm bẫy “máy bay”, nhớ gương mặt hiền từ, đáng thương của ôngụ. Và tôi tự hỏi, liệu ông còn chống chọi với khó khăn và thời gian được bao lâu?
(Kỳ cuối: Ông Ba Non - cao thủ bẫy chuột dừa)

Huỳnh Đức

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN