Trong những năm gần đây, cá chẻm đang là đối tượng cá biển nuôi khá thành công ở Bến Tre. Cá cho năng suất và mang lại lợi ích kinh tế cao, đáp ứng được nhu cầu tiêu thụ cả trong nước và xuất khẩu, góp phần đa dạng hóa đối tượng nuôi, hạn chế ô nhiễm môi trường và dịch bệnh. Tuy nhiên, việc sản xuất ra con giống chất lượng cao còn thiếu, giá thành cao. Nhằm giải quyết tốt con giống cho người nuôi trong tỉnh, trong năm 2008, Trung tâm Giống thủy sản đã thành công trong qui trình sinh sản nhân tạo và ương giống. Sau đây, xin giới thiệu sơ nét về kỹ thuật sản xuất và ương giống cá chẻm.
Quy trình sinh sản nhân tạo cá chẻm:
Chọn cá bố mẹ đảm bảo các tiêu chuẩn như: cá khỏe mạnh, hình dạng cân đối, màu sắc sáng tự nhiên. Cá đực có khối lượng > 2,5 kg/con, cá cái > 4 kg/con và có tuổi > 3+.
Hệ thống xử lý nước:
Nguồn nước --> Hệ thống bể lắng --> Hệ thống bể lọc
--> Hệ thống chứa -->Nước sử dụng.
Kỹ thuật cho cá đẻ: Hiện nay có 2 phương pháp là: kích thích sinh sản tự nhiên và dùng kích dục tố thụ tinh nhân tạo.
* Kích thích cá đẻ tự nhiên trong bể: (có 2 cách)
- Thay đổi các yếu tố môi trường: kích thích cá đẻ bằng cách điều chỉnh môi trường sinh thái giống như đặc điểm sinh sản tự nhiên của cá. Tuy nhiên, phương pháp này kết quả không ổn định nên ít được sử dụng.
- Tiêm kích dục tố (hormone): phương pháp này phổ biến hơn. Thường sử dụng một trong 2 loại kích dục tố là: LRHa (Lutenizing Releasing Hormone Analogue) + Motilimum hoặc HCG (Human Choriomic Gonadotropin) với liều lượng phụ thuộc vào độ thành thục của cá, điều kiện môi trường.
* Kích thích cá sinh sản bằng Hormone và thụ tinh nhân tạo:
Thường áp dụng phương pháp thụ tinh khô. Vuốt trứng cá cái trực tiếp vào dụng cụ chứa khô và sạch, sau đó cho tinh dịch vào. Dùng lông gà trộn đều trứng và tinh dịch khoảng 2 - 3 phút, thêm nước biển lọc vào khi khuấy trộn và để yên 5 phút. Sau đó đưa vào bể ấp.
Thu và ấp trứng:
Trứng cá trong bể đẻ được thu và chuyển đến bể ương bằng cách cung cấp nước liên tục vào bể đẻ, dòng nước chảy tràn mang theo trứng vào một bể nhỏ (2m x 0,3m x 0,4m) trong đó có đặt một lưới phiêu sinh được lắp trước đó hoặc bằng cách dùng lưới mịn có mắt lưới 200 ộm, kéo thu trứng ở bể đẻ, được chuyển vào bể ấp có sục khí nhẹ liên tục, mật độ 500 - 1.000 trứng/L, hoặc ấp trực tiếp vào bể ương nuôi với mật độ 100 – 200 trứng/L. Trứng nở sau khoảng 19 giờ ở nhiệt độ 26 – 28oC, độ mặn 27 - 32‰. Những trứng ung chìm xuống đáy phải hút ra ngoài, vớt ấu trùng chuyển sang bể ương.
Kỹ thuật ương nuôi cá chẻm trong trại sản xuất
Chuẩn bị hệ thống bể ương
Bể ương có thể tích từ 3 – 10 m3. Các trang thiết bị sử dụng để ương cá chẻm như hệ thống bể, dây sục khí, đá bọt, lưới, vợt vớt cá, tất cả được tẩy trùng bằng Chlorine (100 – 200 ppm). Nước được lọc qua túi lọc có kích thước 50 ộm, cấp vào bể ương khoảng 50 – 60% thể tích bể. Cấp tảo (Nannochloropsis oculata hoặc Tetraselmis sp) vào bể với mật độ 106 tb/mL.
Ương nuôi ấu trùng
Mật độ ương ấu trùng phụ thuộc vào kích thước ấu trùng, thông thường mật độ ương ấu trùng mới nở từ 50 – 100 cá thể/lít.
Ấu trùng mới nở dinh dưỡng bằng noãn hoàng, trước khi cá hết noãn hoàng (3 ngày) 1 ngày thì tiến hành cung cấp thức ăn ngoài như luân trùng, trong thời gian từ 2 – 15 ngày tuổi với mật độ 8 – 15 cá thể/mL (không nên cấp mật độ dầy cá sử dụng không hết, dễ gây ô nhiễm nước khi luân trùng chết). Đến ngày thứ 12 hầu hết ấu trùng có khả năng bắt được Nauplius Artemia, trong quá trình cung cấp Nauplius Artemia thì vẫn cung cấp tiếp luân trùng đến khi cá chuyển sang ăn hoàn toàn Artemia (từ ngày 12 đến ngày thứ 25 – 30). Mật độ Artemia được duy trì trong bể ương 3 – 5 cá thể/mL.
Cá khoảng 20 – 25 ngày tuổi thì tập cho cá ăn thức ăn công nghiệp, quan sát thấy cá chủ động bắt mồi tốt thì có thể dừng cung cấp Artemia. Cho cá ăn 6 - 8 lần trong ngày, tùy theo nhu cầu của cá.
Quản lý bể ương:
Ấu trùng cá chẻm rất nhạy cảm với sự biến đổi các yếu tố môi trường, do đó cần duy trì ổn định các yếu tố môi trường như độ muối từ 20 - 30‰; pH: 7 – 8.5, DO e” 5mg/L, nhiệt độ nước: 25 – 30oC, NH3 d”0,03 mg/L.
Sau khoảng 6-7 ngày ương thì tiến hành siphone loại bỏ các chất lắng dưới đáy bể như xác tảo, luân trùng chết, trứng ung… Hoặc thay nước với lượng từ 10 – 50% lượng nước mỗi ngày nhằm đảm bảo chất lượng nước trong bể.
Cần quản lý tốt màu tảo trong bể, để ổn định môi trường ương, đồng thời làm thức ăn cho luân trùng.
Phòng và trị bệnh: Chủ yếu là tiến hành các biện pháp phòng bệnh, quản lý tốt nguồn nước và chất lượng thức ăn. Vệ sinh sạch các dụng cụ sử dụng trong trại giống, tiến hành siphone thay nước hàng ngày. Định kỳ tắm cá bằng nước ngọt hoặc H2O2.
Phân cỡ cá: Cá chẻm là loài cá dữ, chúng thường ăn thịt lẫn nhau, do đó việc phân cỡ cá rất quan trọng, giúp nâng cao tỷ lệ sống. Ấu trùng cá chẻm đạt 30 – 35 ngày tuổi (cá đạt 1,5 – 2 cm) thì tiến hành phân cỡ cá. Số lần tiến hành phân cỡ cá phụ thuộc vào tỷ lệ phân đàn cá.
Thu hoạch: sau thời gian 40 – 50 ngày, cá đạt kích thước 2- 3 cm, kích cỡ cá thu hoạch phụ thuộc nhu cầu của thị trường. Trước khi thu hoạch tiến hành phân lọc cá, cá xuất bán có cùng kích thước để hạn chế ăn nhau trong quá trình vận chuyển và nuôi lớn. Không cho cá ăn trước khi thu hoạch ít nhất 8 giờ, khi thu hoạch cần hạ mực nước trong bể ương, các thao tác thu hoạch nhẹ nhàng nhằm tránh gây tổn thương cơ học cho cá.
Vận chuyển: Có 2 phương pháp
+ Vận chuyển hở: phương pháp này chỉ áp dụng khi vận chuyển với quãng đường ngắn. Có hệ thống sục khí để cung cấp thêm Oxy trong quá trình vận chuyển.
+ Vận chuyển kín: khi quãng đường xa và thời gian vận chuyển dài. Thường sử dụng xe lạnh chuyên dụng trong vận chuyển các đối tượng thủy sản. Cần hạ nhiệt độ nước xuống 22 – 26oC. Cá sẽ được đóng vào bao nilon bơm oxy để vận chuyển, mật độ cá đóng phụ thuộc vào thời gian và phương tiện vận chuyển.