Từ việc triển khai,
ứng dụng khoa học công nghệ, giống mới
Đây là giải pháp quan trọng nhất, được ưu tiên đầu tư và tập
trung thực hiện xuyên suốt trong quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp để gia
tăng hàm lượng khoa học công nghệ (KHCN) vào sản xuất, góp phần nâng cao giá
trị gia tăng và phát triển bền vững. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã
tập trung cho việc đầu tư Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của
tỉnh, xác định đây là đòn bẩy để thực hiện thành công đề án.
Năm qua, tỉnh đã triển khai trên 30 đề tài, dự án và 3
chương trình khoa học và công nghệ như Chương trình phát triển ngành dừa,
Chương trình phát triển bưởi da xanh và Chương trình nông nghiệp đô thị. Đây là
các chương trình KHCN trọng điểm, đi theo hướng chuỗi giá trị nhằm thực hiện đề
án.
Tỉnh đang triển khai dự án Xây dựng chỉ dẫn địa lý “Bến Tre”
cho sản phẩm dừa xiêm xanh, bưởi da xanh Bến Tre, sầu riêng Cái Mơn; nhãn hiệu
tập thể “Lúa sạch Thạnh Phú” và “Măng cụt Chợ Lách”. Hướng dẫn 125 cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến
thủy sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng GMP, SSOP và HACCP; giám sát,
kiểm tra điều kiện an toàn thực phẩm của 245 cơ sở sản xuất kinh doanh, sơ chế,
chế biến thủy sản. Triển khai dự án Hỗ trợ nông nghiệp carbon thấp, đã hỗ trợ
người chăn nuôi xây dựng và đưa vào sử dụng 1 ngàn công trình khí sinh học tại
các huyện.
Bên cạnh đó đã tuyển chọn được 4 giống lúa có khả năng chịu
mặn đến 4%o và ổn định về đặc tính nông học cũng như năng suất khoảng 4 - 5
tấn/ha trên các vùng đất các huyện ven biển. Chuyển giao quy trình sử dụng nấm
xanh để trừ rầy nâu và sâu cuốn lá lúa đạt trên 80%, giảm chi phí 700 ngàn
đồng/ha. Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống sò huyết phù hợp với điều kiện nuôi
ở vùng cửa sông ven biển nhằm cung cấp nguồn con giống chất lượng cao cho các
hộ nuôi.
Đến nay, có 5 cơ sở sản xuất giống cá tra chất lượng cao để
cung ứng cho các vùng nuôi của doanh nghiệp, hộ nuôi. Ngoài ra, còn có 10 cơ
sở được chứng nhận GlobalGAP; 4 cơ sở được chứng nhận ASC; 1 cơ sở được chứng
nhận BAP và 1 cơ sở được chứng nhận AquaGAP. Thực hiện đăng ký mã số nhận diện
cơ sở nuôi cho 16 cơ sở nuôi cá tra, diện tích mặt nước 304ha/343 ao nuôi; xác
nhận đăng ký nuôi cá tra thương phẩm cho 14 cơ sở với diện tích mặt nước
212,1ha/236 ao.
Nâng cao vai trò quản
lý và tổ chức sản xuất
Tỉnh tập trung nhân rộng các mô hình sản xuất theo tiêu
chuẩn GAP và các mô hình sản xuất “liên kết bốn nhà” trên cây ăn trái. Đến nay,
toàn tỉnh có 16 mô hình sản xuất cây ăn trái được cấp giấy chứng nhận GAP,
trong đó có 3 tổ hợp tác (THT) sản xuất bưởi da xanh theo tiêu chuẩn GAP của
Nhơn Thạnh (TP. Bến Tre); xã Thành Triệu, Quới Sơn (Châu Thành) và Hợp tác xã
bưởi da xanh Lương Quới, Bình Hòa (Giồng Trôm) đã ký kết liên kết sản xuất tiêu
thụ với cơ sở thu mua Hương Miền Tây. Năm 2014 thực hiện mô hình liên kết và
tiêu thụ 736ha nhãn ở Bình Đại và 300ha chôm chôm ở Chợ Lách.
Nâng cao hiệu quả hoạt động của 29 THT liên kết sơ chế và
tiêu thụ dừa diện tích 1.210ha tại xã Châu Bình (Giồng Trôm). Đồng thời, triển
khai ký kết 61 hợp đồng bao tiêu sản phẩm với Công ty Xuất nhập khẩu của tỉnh.
Hiện đang tiếp tục củng cố, tổ chức các THT liên kết sơ chế và tiêu thụ dừa với
diện tích 600ha ở huyện Châu Thành và khoảng 317ha ở huyện Bình Đại.
Triển khai thực hiện “Chương trình phát triển bưởi da xanh
tỉnh Bến Tre giai đoạn 2014-2015 và đến 2020” theo chuỗi giá trị; dự án áp dụng
3 giảm 3 tăng và kỹ thuật trồng lúa SRI, dự án cải thiện sinh kế cho hộ nghèo
bằng cách áp dụng kỹ thuật nông nghiệp bền vững; nhân rộng mô hình sản xuất ca
cao đạt tiêu chuẩn UTZ theo hướng liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân. Đến
nay, đã thành lập được 426 THT theo Nghị định số 151 của Chính phủ với hình
thức hợp tác liên kết. Tổ chức chuyển đổi 453ha đất lúa sang trồng màu chuyên
canh, luân canh.
Chăn nuôi phát triển ổn định và từng bước có sự chuyển đổi
từ mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún sang tập trung, quy mô lớn. Đến nay, toàn
tỉnh có 120 trang trại chăn nuôi được cấp giấy chứng nhận áp dụng quy trình
chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học.
Nuôi bò khá thuận lợi do giá đầu ra cao, hiện nay tỷ lệ bò
lai chiếm trên 80% tổng số bò toàn tỉnh. Chăn nuôi gia cầm tương đối ổn định,
mô hình nuôi gà thả vườn được các hộ đầu tư phát triển, ngoài ra nuôi theo
hướng an toàn sinh học đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, đã có 91 cơ sở chăn nuôi
trên đệm lót sinh học trên địa bàn tỉnh. Chăn nuôi heo là 56 cơ sở, gia cầm 35 cơ
sở.
Mô hình “Vùng nuôi tôm biển an toàn dịch bệnh” tại xã An Đức
(Ba Tri) với 149 hộ tham gia nuôi diện tích 100ha đã mang lại hiệu quả kinh tế,
xã hội và môi trường cao (đã kéo giảm tỷ lệ thiệt hại từ 80% năm 2013 xuống còn
18% năm 2014). Ngành đang tiếp tục hỗ trợ địa phương nhân rộng.
Qua một năm thực hiện đề án, đã hình thành được những vùng
sản xuất tập trung: thủy sản ở Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú; chăn nuôi bò ở Ba
Tri; nuôi heo ở Mỏ Cày Nam; cây ăn trái ở huyện Chợ Lách, Châu Thành; cây
giống, hoa kiểng ở huyện Chợ Lách.
Các sở, ngành và các địa phương đã có sự quan tâm, tập trung
phối hợp triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, trong đó chú trọng
phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát
triển bền vững, nhất là đầu tư cải tiến chất lượng sản phẩm, gia tăng hàm lượng
kỹ thuật, công nghệ trong các sản phẩm nông nghiệp nhằm tăng năng suất, chất
lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.
Công tác xây dựng thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp được
quan tâm thực hiện; hoạt động đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất trong lĩnh
vực chế biến nông sản được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư. Tuy nhiên, chưa
hình thành được những hợp tác xã, THT hoạt động hiệu quả trong sản xuất để làm
cơ sở tham gia liên kết với các doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm.
Còn nhiều hạn chế
Việc triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp
là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đồng thời đây cũng là
nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, mới hơn 1 năm thực hiện nên chưa có chuyển biến
rõ nét, hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cần được tiếp tục theo
dõi, đánh giá.
Việc triển khai thực hiện đề án còn chưa được đồng bộ, một
số địa phương, đơn vị chưa thực sự quan tâm, chậm ban hành kế hoạch triển khai
thực hiện. Cấp xã chưa xác định được lĩnh vực ưu tiên trong thực hiện tái cơ
cấu, cơ cấu cây trồng, vật nuôi của một số vùng, một số địa phương bố trí chưa
phù hợp, sản xuất chưa tập trung theo quy mô lớn, việc áp dụng khoa học kỹ thuật
vào sản xuất còn hạn chế, giống cây trồng, vật nuôi chưa được cải thiện nhiều,
khâu liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chỉ mới ở bước khởi đầu.
Thực trạng phát triển ngành Nông nghiệp chưa thật sự ổn
định, bền vững, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh gây ô nhiễm môi trường và
diễn biến phức tạp của dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, thủy sản. Sản xuất
nông nghiệp vẫn còn mang tính nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả còn thấp trên đơn vị
diện tích canh tác, chưa chú trọng nhiều đến phát triển chiều sâu và nâng cao
chất lượng sản phẩm; sức cạnh tranh hàng nông sản còn yếu kém, số lượng sản
phẩm chưa đủ sức cung ứng theo yêu cầu thị trường.
Hệ thống chính sách hỗ trợ chưa thực sự đủ mạnh, chưa tạo cơ
chế thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông
thôn. Các mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ và sự gắn kết chuỗi giá trị sản
phẩm chưa thật sự chặt chẽ, còn mang tính hình thức; một số mô hình sản xuất có
hiệu quả khá, nhưng nhân rộng còn chậm. Lĩnh vực chế biến, tiêu thụ hàng nông
sản của tỉnh có quy mô nhỏ nên bị hạn chế về khả năng xây dựng thương hiệu và
giữ vững thị trường.
Căn cứ
vào điều kiện tự nhiên, tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, tỉnh xác định
các vùng sản xuất tập trung, trọng điểm và các sản phẩm chủ lực, cụ thể như Mỏ
Cày Nam với các sản phẩm chủ lực dừa và chăn nuôi heo; Mỏ Cày Bắc sản phẩm
chủ lực dừa, cây ăn trái, nuôi gà sinh học và chăn nuôi heo; Chợ Lách tập
trung phát triển cây ăn trái, hoa kiểng và cá tra; Châu Thành phát triển dừa,
cây ăn trái và cá tra; Bình Đại phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản và
nghề muối; Ba Tri phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản, lúa và chăn nuôi
bò; Thạnh Phú phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản; Giồng Trôm phát
triển cây dừa, lúa và cây ăn trái; TP. Bến Tre tập trung phát triển bưởi và
rau màu. |