Những chuyển biến sau 1 năm triển khai

29/05/2015 - 05:52

Khảo sát mô hình trồng chanh dây tại xã Giao Hòa, huyện Châu Thành. Ảnh: TH

Sau hơn một năm triển khai Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, bước đầu đạt được một số kết quả nhất định, làm thay đổi phần nào nhận thức của các cấp ngành, địa phương và đặc biệt là nông dân về chủ trương tái cơ cấu. Tuy nhiên, đề án còn phải cần thêm nhiều thời gian mới có khả năng đạt mục tiêu đề ra.

Từ việc triển khai, ứng dụng khoa học công nghệ, giống mới

Đây là giải pháp quan trọng nhất, được ưu tiên đầu tư và tập trung thực hiện xuyên suốt trong quá trình tái cơ cấu ngành Nông nghiệp để gia tăng hàm lượng khoa học công nghệ (KHCN) vào sản xuất, góp phần nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã tập trung cho việc đầu tư Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao của tỉnh, xác định đây là đòn bẩy để thực hiện thành công đề án.

Năm qua, tỉnh đã triển khai trên 30 đề tài, dự án và 3 chương trình khoa học và công nghệ như Chương trình phát triển ngành dừa, Chương trình phát triển bưởi da xanh và Chương trình nông nghiệp đô thị. Đây là các chương trình KHCN trọng điểm, đi theo hướng chuỗi giá trị nhằm thực hiện đề án.

Tỉnh đang triển khai dự án Xây dựng chỉ dẫn địa lý “Bến Tre” cho sản phẩm dừa xiêm xanh, bưởi da xanh Bến Tre, sầu riêng Cái Mơn; nhãn hiệu tập thể “Lúa sạch Thạnh Phú” và “Măng cụt Chợ Lách”.  Hướng dẫn 125 cơ sở thu mua, sơ chế, chế biến thủy sản áp dụng chương trình quản lý chất lượng GMP, SSOP và HACCP; giám sát, kiểm tra điều kiện an toàn thực phẩm của 245 cơ sở sản xuất kinh doanh, sơ chế, chế biến thủy sản. Triển khai dự án Hỗ trợ nông nghiệp carbon thấp, đã hỗ trợ người chăn nuôi xây dựng và đưa vào sử dụng 1 ngàn công trình khí sinh học tại các huyện.

Bên cạnh đó đã tuyển chọn được 4 giống lúa có khả năng chịu mặn đến 4%o và ổn định về đặc tính nông học cũng như năng suất khoảng 4 - 5 tấn/ha trên các vùng đất các huyện ven biển. Chuyển giao quy trình sử dụng nấm xanh để trừ rầy nâu và sâu cuốn lá lúa đạt trên 80%, giảm chi phí 700 ngàn đồng/ha. Nghiên cứu kỹ thuật sản xuất giống sò huyết phù hợp với điều kiện nuôi ở vùng cửa sông ven biển nhằm cung cấp nguồn con giống chất lượng cao cho các hộ nuôi.

Đến nay, có 5 cơ sở sản xuất giống cá tra chất lượng cao để cung ứng cho các vùng nuôi của doanh nghiệp, hộ nuôi. Ngoài ra, còn có 10 cơ sở được chứng nhận GlobalGAP; 4 cơ sở được chứng nhận ASC; 1 cơ sở được chứng nhận BAP và 1 cơ sở được chứng nhận AquaGAP. Thực hiện đăng ký mã số nhận diện cơ sở nuôi cho 16 cơ sở nuôi cá tra, diện tích mặt nước 304ha/343 ao nuôi; xác nhận đăng ký nuôi cá tra thương phẩm cho 14 cơ sở với diện tích mặt nước 212,1ha/236 ao.

Nâng cao vai trò quản lý và tổ chức sản xuất

Tỉnh tập trung nhân rộng các mô hình sản xuất theo tiêu chuẩn GAP và các mô hình sản xuất “liên kết bốn nhà” trên cây ăn trái. Đến nay, toàn tỉnh có 16 mô hình sản xuất cây ăn trái được cấp giấy chứng nhận GAP, trong đó có 3 tổ hợp tác (THT) sản xuất bưởi da xanh theo tiêu chuẩn GAP của Nhơn Thạnh (TP. Bến Tre); xã Thành Triệu, Quới Sơn (Châu Thành) và Hợp tác xã bưởi da xanh Lương Quới, Bình Hòa (Giồng Trôm) đã ký kết liên kết sản xuất tiêu thụ với cơ sở thu mua Hương Miền Tây. Năm 2014 thực hiện mô hình liên kết và tiêu thụ 736ha nhãn ở Bình Đại và 300ha chôm chôm ở Chợ Lách.

Nâng cao hiệu quả hoạt động của 29 THT liên kết sơ chế và tiêu thụ dừa diện tích 1.210ha tại xã Châu Bình (Giồng Trôm). Đồng thời, triển khai ký kết 61 hợp đồng bao tiêu sản phẩm với Công ty Xuất nhập khẩu của tỉnh. Hiện đang tiếp tục củng cố, tổ chức các THT liên kết sơ chế và tiêu thụ dừa với diện tích 600ha ở huyện Châu Thành và khoảng 317ha ở huyện Bình Đại.

Triển khai thực hiện “Chương trình phát triển bưởi da xanh tỉnh Bến Tre giai đoạn 2014-2015 và đến 2020” theo chuỗi giá trị; dự án áp dụng 3 giảm 3 tăng và kỹ thuật trồng lúa SRI, dự án cải thiện sinh kế cho hộ nghèo bằng cách áp dụng kỹ thuật nông nghiệp bền vững; nhân rộng mô hình sản xuất ca cao đạt tiêu chuẩn UTZ theo hướng liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân. Đến nay, đã thành lập được 426 THT theo Nghị định số 151 của Chính phủ với hình thức hợp tác liên kết. Tổ chức chuyển đổi 453ha đất lúa sang trồng màu chuyên canh, luân canh.

Chăn nuôi phát triển ổn định và từng bước có sự chuyển đổi từ mô hình chăn nuôi nhỏ lẻ, manh mún sang tập trung, quy mô lớn. Đến nay, toàn tỉnh có 120 trang trại chăn nuôi được cấp giấy chứng nhận áp dụng quy trình chăn nuôi theo hướng an toàn sinh học.

Nuôi bò khá thuận lợi do giá đầu ra cao, hiện nay tỷ lệ bò lai chiếm trên 80% tổng số bò toàn tỉnh. Chăn nuôi gia cầm tương đối ổn định, mô hình nuôi gà thả vườn được các hộ đầu tư phát triển, ngoài ra nuôi theo hướng an toàn sinh học đem lại hiệu quả cao. Hiện nay, đã có 91 cơ sở chăn nuôi trên đệm lót sinh học trên địa bàn tỉnh. Chăn nuôi heo là 56 cơ sở, gia cầm 35 cơ sở.

Mô hình “Vùng nuôi tôm biển an toàn dịch bệnh” tại xã An Đức (Ba Tri) với 149 hộ tham gia nuôi diện tích 100ha đã mang lại hiệu quả kinh tế, xã hội và môi trường cao (đã kéo giảm tỷ lệ thiệt hại từ 80% năm 2013 xuống còn 18% năm 2014). Ngành đang tiếp tục hỗ trợ địa phương nhân rộng.

Qua một năm thực hiện đề án, đã hình thành được những vùng sản xuất tập trung: thủy sản ở Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú; chăn nuôi bò ở Ba Tri; nuôi heo ở Mỏ Cày Nam; cây ăn trái ở huyện Chợ Lách, Châu Thành; cây giống, hoa kiểng ở huyện Chợ Lách.

Các sở, ngành và các địa phương đã có sự quan tâm, tập trung phối hợp triển khai thực hiện tái cơ cấu ngành Nông nghiệp, trong đó chú trọng phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, nhất là đầu tư cải tiến chất lượng sản phẩm, gia tăng hàm lượng kỹ thuật, công nghệ trong các sản phẩm nông nghiệp nhằm tăng năng suất, chất lượng sản phẩm, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng.

Công tác xây dựng thương hiệu các sản phẩm nông nghiệp được quan tâm thực hiện; hoạt động đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất trong lĩnh vực chế biến nông sản được các doanh nghiệp chú trọng đầu tư. Tuy nhiên, chưa hình thành được những hợp tác xã, THT hoạt động hiệu quả trong sản xuất để làm cơ sở tham gia liên kết với các doanh nghiệp trong tiêu thụ sản phẩm.

Còn nhiều hạn chế

Việc triển khai thực hiện Đề án tái cơ cấu ngành Nông nghiệp là nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị và toàn xã hội, đồng thời đây cũng là nhiệm vụ thường xuyên, lâu dài, mới hơn 1 năm thực hiện nên chưa có chuyển biến rõ nét, hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi cần được tiếp tục theo dõi, đánh giá.

Việc triển khai thực hiện đề án còn chưa được đồng bộ, một số địa phương, đơn vị chưa thực sự quan tâm, chậm ban hành kế hoạch triển khai thực hiện. Cấp xã chưa xác định được lĩnh vực ưu tiên trong thực hiện tái cơ cấu, cơ cấu cây trồng, vật nuôi của một số vùng, một số địa phương bố trí chưa phù hợp, sản xuất chưa tập trung theo quy mô lớn, việc áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất còn hạn chế, giống cây trồng, vật nuôi chưa được cải thiện nhiều, khâu liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm chỉ mới ở bước khởi đầu.

Thực trạng phát triển ngành Nông nghiệp chưa thật sự ổn định, bền vững, còn tiềm ẩn nhiều nguy cơ phát sinh gây ô nhiễm môi trường và diễn biến phức tạp của dịch bệnh trên cây trồng, vật nuôi, thủy sản. Sản xuất nông nghiệp vẫn còn mang tính nhỏ lẻ, manh mún, hiệu quả còn thấp trên đơn vị diện tích canh tác, chưa chú trọng nhiều đến phát triển chiều sâu và nâng cao chất lượng sản phẩm; sức cạnh tranh hàng nông sản còn yếu kém, số lượng sản phẩm chưa đủ sức cung ứng theo yêu cầu thị trường.

Hệ thống chính sách hỗ trợ chưa thực sự đủ mạnh, chưa tạo cơ chế thúc đẩy phát triển sản xuất, kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn. Các mô hình liên kết sản xuất tiêu thụ và sự gắn kết chuỗi giá trị sản phẩm chưa thật sự chặt chẽ, còn mang tính hình thức; một số mô hình sản xuất có hiệu quả khá, nhưng nhân rộng còn chậm. Lĩnh vực chế biến, tiêu thụ hàng nông sản của tỉnh có quy mô nhỏ nên bị hạn chế về khả năng xây dựng thương hiệu và giữ vững thị trường.

Căn cứ vào điều kiện tự nhiên, tiềm năng và thế mạnh của từng vùng, tỉnh xác định các vùng sản xuất tập trung, trọng điểm và các sản phẩm chủ lực, cụ thể như Mỏ Cày Nam với các sản phẩm chủ lực dừa và chăn nuôi heo; Mỏ Cày Bắc sản phẩm chủ lực dừa, cây ăn trái, nuôi gà sinh học và chăn nuôi heo; Chợ Lách tập trung phát triển cây ăn trái, hoa kiểng và cá tra; Châu Thành phát triển dừa, cây ăn trái và cá tra; Bình Đại phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản và nghề muối; Ba Tri phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản, lúa và chăn nuôi bò; Thạnh Phú phát triển nuôi trồng, khai thác thủy sản; Giồng Trôm phát triển cây dừa, lúa và cây ăn trái; TP. Bến Tre tập trung phát triển bưởi và rau màu.

ĐVĐ

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN