Những điều chưa biết về cuộc Đồng Khởi ở Bến Tre và bà Nguyễn Thị Định

11/01/2010 - 09:07
Đội quân tóc dài Bến Tre. Ảnh tư liệu

Không còn bao lâu nữa, sự kiện lừng danh một thời được mọi người biết đến: Đồng Khởi Bến Tre (17-1-1960) sẽ tròn nửa thế kỷ. Trong chừng ấy thời gian, đã có rất nhiều công trình nghiên cứu, hồi ký, tác phẩm văn học, nghệ thuật  nói về diễn biến và tác động sâu xa của cuộc “nổi dậy” từ những người dân sống trên mảnh đất rợp bóng dừa xanh đối với toàn cục cuộc chiến nhằm mục tiêu thống nhất đất nước của dân tộc Việt Nam. Dù còn nhiều ý kiến khác nhau trong cách đánh giá, nhìn nhận nhưng có một điều không thể chối cãi: đó là một sự kiện hào hùng được làm nên từ những người bình thường mà chính những người trong cuộc vàụ con cháu họ cho đến ngày nay vẫn còn tự hào và trân trọng tìm tòi, gìn giữ những câu chuyện, những hiện vật của một thời không thể nào quên.

Câu chuyện về tác giả hai từ “Đồng Khởi”
Từ trước đến nay, mọi người thường nhắc đến “Đồng Khởi” như là từ ngữ ra đời từ phong trào đấu tranh chống Mỹ ở miền Nam trong những năm đầu của thập niên 60 mà không biết ai là tác giả, là người đầu tiên nói lên từ đóù. Các công trình nghiên cứu lịch sử cũng không đề cập đến vấn đề này. Ông Nguyễn Minh Đường (Sáu Đường), nguyên Bí thư  Khu ủy Trung Nam bộ tại Hội nghị Tổng kết chiến tranh (tháng 7-1982) ở BếnTre do Đại tướng Hoàng Văn Thái chủ trì đã xác nhận: “Trong các văn bản của Trung ương Đảng (NQ 15) cũng như Nghị quyết của Hội nghị Khu ủy tháng 12-1959 (triển khai NQ 15) chỉ đạo Bến Tre không có đề ra danh từ “Đồng Khởi”. Trên thực tế, sau cuộc nổi dậy ở Bến Tre giành được thắng lợi mới  xuất hiện danh từ này”. (“Huyền thoại quê hương Đồng Khởi”, NXB Quân Đội Nhân Dân, Hà Nội-2008, trang 157).
Tại lần họp chuẩn bị  cuối cùng vào ngày 1 đến 3-1-1960 tại nhà bà Bảy Tốt ở xã Minh Đức, huyện Mỏ Cày, hai tuần trước khi cuộc Đồng Khởi nổ ra, có nhiều ý kiến khác nhau, thậm chí tranh cãi quyết liệt của những người lãnh đạo tỉnh Bến Tre bấy giờ nhằm thống nhất biện pháp tiến hành thắng lợi cuộc nổi dậy. Bà Nguyễn Thị Định (lúc đó là Phó Bí thư Tỉnh ủy) viết trong quyển hồi ký “Không còn con đường nào khác”: “Trong hội nghị này, thảo luận hết, ai cũng nói cả, tới khi tôi gom lại ý kiến kết luận phát động một tuần lễ toàn dân Đồng Khởi thì các đồng chí đều nhất trí. Thế là thành tên gọi chính thức.” (“Nữ Tướng Nguyễn Thị Định”, NXB Phụ Nữ, trang 129). Hồi ký của Bà Định cũng không xác định rõ ai là người đầu tiên nói ra từ  Đồng Khởi. Những người tham dự cuộc họp đến nay đều không còn nữa.
Mới đây, trong dịp tham gia thực hiện bộ phim tài liệu “Nhớ Cô Ba Định” (hãng phim MêKông), chúng tôi được tiếp cận những trang hồi ký đã hoen màu của ông Trần Văn Giàu (Ba Cầu), nguyên Bí thư Quận ủy quận 1 TP HCM, một trong số 8 người dự cuộc họp lịch sử đó. Lúc bấy giờ ông là Bí thư Ban cán sự Đảng thị xã Bến Tre. Hồi ký có tựa đề: “Tôi ghi lại đời tôi để các con tôi biết”, trong đó có đoạn: “…Chị Ba Định nhắc đi nhắc lại: Ta phát động nhân dân đồng lòng khởi nghĩa làm một lượt thì mới có sức mạnh lớn, Đồng Khởi là nói tắt của đồng lòng khởi nghĩa, nếu khởi nghĩa không đồng lòng trong tỉnh hay ở miền Nam thì sẽ không có kết quả”. Điều này trùng với sự bộc lộ của bà Nguyễn Thị Định trong hồi ký: “…hai chữ Đồng Khởi riêng trong đầu óc tôi vẫn liên tưởng từ cuộc khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám mà ra. Ngụ ý là phải nhất tề nổi dậy như khởi nghĩa tháng Tám mới thắng được”. (Sđd, trang 129).
Nhà văn Nguyễn Hồ, người đầu tiên phát hiện và đọc những trang hồi ký của ông Ba Cầu có nói:” Lúc Đồng Khởi tôi là Chánh văn phòng Thị xã ủy Bến Tre, trong tập hồi ký này tôi nhận ra nhiều vấn đề anh Ba ghi chép rất tỉ mỉ, thận trọng chung quanh chuyện cô Ba Định chỉ đạo cuộc Đồng Khởi như thế nào. Hồi ký của anh Ba Cầu nói rất rõ, hai chữ Đồng Khởi bây giờ chúng ta dùng rất quen thuộc là do chính miệng cô Ba nói ra. Là một người viết văn, làm báo, đọc đến đoạn này tôi vô cùng xúc động, cảm phục ý tưởng và cách lập ngôn rất sáng sủa, rõ ràng.  Vậy là hai chữ Đồng Khởi thật sự đã có chủ, đã có tác gia”.
Những tài liệu của chính quyền Sài Gòn về cuộc Đồng Khởi
Lâu nay, chúng ta công bố lịch sử  Đồng Khởi thường chỉ một chiều, tức là căn cứ vào những lời kể, những tổng kết của “phe ta”, mặc dù những câu chuyện, nhận xét đó rất đúng với sự thật nhưng theo quan điểm thông tin hiện đại thì kém sức thuyết phục vì thiếu tính “đa chiều”.
Để tìm bằng chứng nhằm đối chiếu, bổ sung thêm những gì chính sử đã ghi về diễn biến và tính chất của những ngày Đồng Khởi ở Bến Tre (bắt đầu từ ngày 17-1-1960), chúng tôi đã tìm được hai tập hồ sơ quan trọng của phía đối phương từ Trung tâm Lưu trữ  Quốc gia 2 tại thành phố Hồ Chí Minh, đó là các báo cáo của Phòng Nhì, Bộ Tổng Tham mưu gửi cho Biệt bộ Tham mưu trưởng phủ Tổng Thống VNCH. Hồ sơ thứ nhất mang số 0085/TTM/2 ghi tiêu đề: “Bản phúc trình về các biến cố xảy ra tại Kiến Hòa trong những ngày17,18,19-1-1960” (kèm sơ đồ) được đóng dấu đến của Tổng thống phủ  ngày 22-1-1960. Hồ sơ thứ 2 mang số 0093/TTM/2 ghi tiêu đề: “Bản tình hình đặc biệt tỉnh Kiến Hòa từ ngày 20 đến 23-1-1960” đóng dấu đến của Tổng thống phủ ngày 26-1-1960. Cả hai báo cáo đều đóng mộc “Kín” và “Thượng khẩn” do Trung tá Nguyễn Văn Phước, Trưởng Phòng Nhì Bộ TTM Quân đội VNCH ký.
Điều dễ dàng nhận thấy là qua nội dung các báo cáo, phía VNCH đã thừa nhận: Đồng khởi ở Bến Tre đã nổ ra đồng loạt, liên tục ở nhiều không gian khác nhau. Trong báo cáo thứ nhất có ghi (trích): “Đêm 16 rạng 17-1, VC tấn công có hiệu quả đồn Bảo an Bình Chánh (quận Giồng Trôm). Ngày 17-1, hồi 10 giờ, VC tấn công công sở Định Thủy… Hồi 13 giờ bao vây bán tiểu đội B.A ( Bảo an) tuần tiễu tại xã Bình Khánh. Hồi 17 giờ tấn công công sở An Qui…,19 giờ bắn phá rối công sở An Thới…,20 giờ bắn phá rối tháp canh Cổ Chiên, tấn công công sở Nhuận Phú Tân, Cẩm Sơn, cướp công sở Hương Mỹ…,21 giờ đột nhập công sở Phước Thạnh…, biểu tình tại ấp Thanh Đông thuộc xã Tân Bình, 23 giờ tấn công công sở Minh Đức. Ngày 18-1: Hồi 16 giờ, VC đốt cầu Giồng Vỏ…, 22 giờ đốt cầu Rạch Vông trên đường liên tỉnh số 6…,23 giờ tấn công công sở Phước Hiệp…,24 giờ tấn công công sở Ngãi Đăng, bắn phá rối công sở Hữu Định…”.
Như vậy, qua 2 tài liệu này có thể nhận thấy: chỉ riêng ngày 17-1, ngày diễn ra Đồng Khởi ở Bến Tre mà lịch sử đã ghi nhận, nhân dân đã nổi dậy không chỉ ở một nơi mà nổi dậy đồng loạt ở các huyện: Mỏ Cày (Định Thủy, Bình Khánh, An Thới, Nhuận Phú Tân, Cẩm Sơn, Hương Mỹ, Tân Bình, Minh Đức, Phước Hiệp); Giồng Trôm (Bình Chánh); Thạnh Phú (An Qui) và Châu Thành (Phước Thạnh), các ngày sau đó tiếp tục lan ra các huyện thị còn lại thành một phong trào rộng lớn trong toàn tỉnh.
Điều thứ hai thể hiện qua các báo cáo là: ngụy quyền Sài Gòn bị đặt vào thế biỉ động vì hoàn toàn bất ngờ, không tin rằng một cuộc “nổi dậy” sẽ nổ ra. Trang 4 báo cáo mang mã số 0085 nhận xét: “- Hầu hết các công sở (Xã đoàn Dân vệ) hoặc trụ sở Tổng đoàn Dân vệ đều không được phòng thủ cẩn mật (không có hàng rào thép gai, hố chiến đấu…)
- Riêng các Trung đội C.A.Đ.B (Công an đặc biệt, tình báo. Nv) hoạt động tại các liên xã trong những ngày xảy ra biến cố không có một phản ứng nào cả.
- Ngoài ra, tại tỉnh lỵ Kiến Hòa cũng như quận lỵ Mỏ Cày không có lực lượng trừ bị nên trong ngày 17 và 18-1 không có sự tiếp viện hoặc tăng cường các nơi bị hăm dọa, do đó ta hoàn toàn bị đặt trong tình trạng phòng thủ thụ động”.
Về “ Tình hình địch trong vùng”, Phòng nhì của Bộ Tổng tham mưu quân đội VNCH cũng cho biết: “Từ trước đến nay, tại tỉnh Kiến Hòa nói chung và riêng tại quận Mỏ Cày không thấy có các đơn vị lớn võ trang hoạt động ngoại trừ các toán cán bộ bảo vệ cơ sở Huyện, Tỉnh ủy và số nằm vùng…Ngoài ra, phải kể số cán bộ bảo vệ cơ sở mỗi huyện độ 5 người và số nòng cốt mỗi xã độ 10 người, thường không được võ trang đầy đủ”.  Bộ TTM quân đội Sài Gòn cũng thừa nhận: “lực lượng võ trang của VC tuy không đáng kể… nhưng đã khéo léo lôi cuốn số quần chúng làm hậu thuẫn và số nội tuyến có sẵn để thực hiện có kết quả âm mưu của chúng”.
Các tài liệu này cho thấy, Tỉnh ủy Bến Tre lúc đó đã chuẩn bị cho cuộc Đồng Khởi thật cẩn trọng, chu đáo, đảm bảo được  bí mật. Nhiều cán bộ bị bắt trước khi Đồng  Khởi diễn ra vài ngày, bị tra tấn dã man nhưng chấp nhận hy sinh, không tiết lộ kế hoạch (như ông Bảy Tranh, Huyện ủy viên Mỏ Cày). Phía đối phương cũng thừa nhận: Đồng Khởi Bến Tre thực sự là một cuộc chiến của nhân dân được thực hiện bằng 3 mũi giáp công: quân sự (lực lượng võ trang của VC tuy không đáng kể), chính trị (nhưng đã khéo léo lôi cuốn số quần chúng làm hậu thuẫn) và binh vận (số nội tuyến có sẵn) một cách nhuần nhuyễn và đạt kết quả.
Cái mới của Bến Tre là đã nâng đấu tranh chính trị lên một vị trí rất cao, trở thành một phương thức đấu tranh chiến lược trong chiến tranh.

 

Hữu Vinh

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN