Luật hoá quyền tiếp cận thông tin
Luật
Tiếp cận thông tin quy định về việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin của công
dân; nguyên tắc, trình tự, thủ tục thực hiện việc tiếp cận thông tin; trách
nhiệm, nghĩa vụ của cơ quan nhà nước trong việc bảo đảm quyền tiếp cận thông
tin của công dân.
Theo
quy định của luật, mọi công dân đều bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trong
việc thực hiện quyền tiếp cận thông tin. Việc hạn chế quyền tiếp cận thông tin
phải do luật định trong trường hợp cần thiết vì lý do quốc phòng, an ninh quốc
gia, trật tự, an toàn xã hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng. Việc thực
hiện quyền tiếp cận thông tin của công dân không được xâm phạm lợi ích quốc
gia, dân tộc, quyền và lợi ích hợp pháp của người khác.
Hiến
pháp 2013 đã xác định rõ quyền tiếp cận thông tin là quyền cơ bản của công dân.
Do vậy, Luật Tiếp cận thông tin thể chế hóa quy định này của Hiến pháp, bảo đảm
để công dân nước CHXHCN Việt Nam được thực hiện đầy đủ quyền của mình.
Luật
Tiếp cận thông tin bao gồm 5 chương, 37 điều đã được các đại biểu Quốc hội
thông qua với tỉ lệ 88,46% tán thành. Luật có hiệu lực kể từ ngày 1-7-2018.
Cụ thể nhiều quy định về hành nghề dược
Với
88,06% đại biểu tán thành, Luật Dược (sửa đổi) gồm 14 chương 116 điều đã được
Quốc hội thông qua và có hiệu lực thi hành từ ngày 1-1-2017.
Trước
đó, Quốc hội đã xin ý kiến ĐBQH qua phiếu về quy định thời hạn của chứng chỉ
hành nghề dược. Theo đó, 62,67% ĐBQH nhất trí cho rằng cần quy định chứng chỉ
hành nghề được cấp 1 lần. Các quy định thu hồi chứng chỉ hành nghề khi không
cập nhật kiến thức chuyên môn liên tục (Khoản 9 Điều 28) và các biện pháp hậu
kiểm khác sẽ bảo đảm tính khả thi của quy định này.
Luật
Dược quy định về chính sách của Nhà nước về dược và phát triển công nghiệp
dược; hành nghề dược; kinh doanh dược; đăng ký, lưu hành, thu hồi thuốc và
nguyên liệu làm thuốc; dược liệu và thuốc cổ truyền; đơn thuốc và sử dụng
thuốc; thông tin thuốc, cảnh giác dược và quảng cáo thuốc; dược lâm sàng; quản
lý thuốc trong cơ sở khám bệnh, chữa bệnh; thử thuốc trên lâm sàng và thử tương
đương sinh học của thuốc; quản lý chất lượng thuốc, nguyên liệu làm thuốc và
quản lý giá thuốc. Luật này áp dụng đối với cơ quan, tổ chức, cá nhân trong
nước và tổ chức, cá nhân nước ngoài có liên quan đến hoạt động dược tại Việt
Nam.
Sửa đổi, bổ sung các quy định về thuế
Dự
thảo Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Thuế giá trị gia tăng,
Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt và Luật Quản lý thuế gồm 4 Điều đã được Quốc hội
thông qua với 86,64% đại biểu tán thành.
Dự
thảo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu (sửa đổi) gồm 5 chương, 22 điều cũng
đã được Quốc hội thông qua với 91,30% tán thành.
Báo
cáo giải trình, tiếp thu và chỉnh lý dự thảo Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập
khẩu (sửa đổi) nêu rõ về đối tượng chịu thuế (Điều 2), một số ý kiến đề nghị
luật hóa đối tượng chịu thuế đối với hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu tại chỗ và
hàng hóa của doanh nghiệp chế xuất thực hiện quyền nhập khẩu, quyền phân phối.
Trong trường hợp quy định tại các văn bản dưới luật, đề nghị giao Chính phủ
hướng dẫn Điều này.
Tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã chỉ đạo cơ quan
thẩm tra và cơ quan soạn thảo bổ sung một khoản quy định về hàng hóa xuất
khẩu, nhập khẩu tại chỗ và hàng hóa xuất khẩu, nhập khẩu của doanh nghiệp
thực hiện quyền xuất khẩu, nhập khẩu, quyền phân phối vào Điều 2 của dự
thảo luật. Đồng thời, để bao quát, xử lý toàn diện các vấn đề phát
sinh trong thực tiễn, Ủy ban Thường vụ Quốc hội bổ sung vào Điều 2 của dự
thảo luật, giao Chính phủ quy định chi tiết điều này. Nội dung này được thể
hiện tại Khoản 3, Khoản 5 Điều 2 của dự thảo luật.
Luật
có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-9-2016. Luật Thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
số 45/2005/QH11 hết hiệu lực kể từ ngày Luật này có hiệu lực.