Ngày
2-9-1945, cách nay vừa tròn 69 năm, tại Quảng trường Ba Đình lịch sử, Chủ tịch
Hồ Chí Minh đã đọc Tuyên ngôn độc lập - khai sinh Nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, nay là Nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Và, cách nay vừa tròn 45
năm, ngày 2-9-1969, Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ thiên tài của Đảng và dân tộc
Việt Nam; người chiến sĩ Cộng sản đấu tranh không mệt mỏi, nhà hoạt động chính
trị lỗi lạc của phong trào Cộng sản và công nhân quốc tế; anh hùng giải phóng
dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới đã vĩnh biệt chúng ta đi vào cõi vĩnh hằng.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta một bản Di
chúc thiêng liêng, bất hủ. Đó là những lời căn dặn cuối cùng của Bác đối với
toàn Đảng, toàn dân, toàn quân và cho cả các thế hệ người Việt Nam mai sau.
Bảy
mươi chín mùa xuân - hơn 60 năm hoạt động, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cống hiến
trọn đời mình cho sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc. “Người đã trải qua một cuộc đời oanh liệt, đầy gian khổ, hy sinh, vô
cùng cao thượng và phong phú, vô cùng trong sáng và đẹp đẽ”.
Khi ở tuổi xưa nay hiếm, Bác tự cảm nhận được sức khỏe của mình bị giảm sút, dự
cảm được thời khắc quan trọng ở cuối cuộc đời mình, nên Người đã chủ động “để sẵn mấy lời”, “phòng khi tôi sẽ đi gặp cụ Các-Mác, cụ Lê-nin và các
vị cách mạng đàn anh khác, thì đồng bào cả nước, đồng chí trong Đảng và bầu bạn
khắp nơi đều khỏi cảm thấy đột ngột”. Dự cảm của Bác thể hiện sự
tự nhận thức một cách sâu sắc về bản thân mình và sẵn sàng đón nhận qui luật cuộc
sống bằng một phong thái ung dung, thanh thản. Suốt cuộc đời, Bác hết lòng, hết
sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ cách mạng, phục vụ nhân dân đến khi từ biệt thế
giới này, Bác không có điều gì phải hối tiếc, “chỉ tiếc là
tiếc rằng không được phục vụ lâu hơn nữa, nhiều hơn nữa”. Nội
dung Di chúc chỉ hơn một ngàn từ mà chứa đựng biết bao tình cảm, hoài bão, thể
hiện trong từng lời nhắc nhở, dặn dò trước lúc Bác đi xa.
Trước
hết, cần khẳng định rằng, Di chúc của Bác Hồ là những lời tiên tri đúng đắn
những gì lịch sử sẽ diễn ra. Thời điểm Bác viết Di chúc (1965-1969), trong lúc
cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước ở miền Nam đứng trước những thử thách vô
cùng to lớn, đòi hỏi phải có sự đoàn kết chặt chẽ, kiên cường chiến đấu bền bỉ
của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân quyết tâm đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào, Bắc - Nam sum họp một nhà. Khát vọng và niềm tin chiến thắng của Chủ tịch
Hồ Chí Minh về cuộc chiến tranh chính nghĩa của nhân dân Việt Nam được thể
hiện sâu sắc ở lời dự báo có tính khẳng định, như một tất yếu của lịch sử. “Cuộc chống Mỹ, cứu nước của nhân dân ta dù phải kinh qua gian khổ, hy
sinh nhiều hơn nữa, song nhất định thắng lợi hoàn toàn. Đó là một điều chắc
chắn”. Đây là sự tiên tri mang tính khẳng định, đồng thời
cũng là lời căn dặn quan trọng của Người, bởi không có gì lo lắng hơn lúc bấy
giờ của Bác, khi mà cuộc kháng chiến ở miền Nam đang bước vào giai đoạn ác liệt
- khi không còn Bác trực tiếp cùng Đảng ta dẫn dắt. Tiên liệu cuộc kháng chiến
chống Mỹ có thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hy sinh nhiều người, nhiều
của, Bác đặc biệt dặn dò thêm trước đoạn kết thúc: “Dù sao, chúng ta phải quyết tâm đánh giặc Mỹ đến thắng lợi hoàn toàn.
Còn non, còn nước, còn người, Thắng giặc Mỹ, ta sẽ xây dựng hơn mười
ngày nay!”
Là
người sáng lập, giáo dục và rèn luyện Đảng ta, bằng dự cảm của riêng mình, Bác
thấu hiểu rằng, mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam đều gắn liền với sự
trưởng thành ngày càng lớn mạnh của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công
nhân; đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động và cả dân tộc Việt Nam,
nên trong Di chúc của Bác “Trước hết nói về Đảng” và
yêu cầu việc cần phải làm trước tiên là chỉnh đốn lại Đảng. Người khẳng định: “Đảng ta là một Đảng cầm quyền. Mỗi đảng viên phải thấm nhuần đạo đức
cách mạng, thật sự cần kiệm liêm chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn Đảng ta
thật trong sạch vững mạnh, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ
thật trung thành của nhân dân”, “giữ gìn sự đoàn kết, nhất trí trong Đảng như
giữ gìn con ngươi của mắt mình”. “Trong Đảng phải thực hành dân chủ rộng rãi,
thường xuyên và nghiêm chỉnh tự phê bình và phê bình là cách tốt nhất để củng
cố và giữ gìn sự đoàn kết thống nhất trong Đảng. Phải có tình đồng chí thương
yêu lẫn nhau”. Công tác chỉnh đốn Đảng là
nhiệm vụ chiến lược, là công việc thường xuyên để giữ vững vai trò lãnh đạo của
Đảng cầm quyền. Bởi khi cách mạng gặp khó khăn, chỉnh đốn Đảng để xây dựng thái
độ bình tĩnh, sáng suốt, kiên định lập trường. Khi cách mạng trên đà thắng lợi,
chỉnh đốn Đảng để ngăn chặn bệnh kiêu ngạo, chủ quan, tự mãn, lạc quan tếu. Khi
Đảng cầm quyền, đảng viên rất dễ bị đánh mất mình, ngày hôm qua vĩ đại, ngày
hôm nay không nhất thiết được mọi người yêu mến, nếu lòng dạ không
còn trong sáng nữa, sa vào chủ nghĩa cá nhân.
Bác là người cống hiến trọn cuộc đời cho Đảng, cho dân tộc,
Bác xác định sự nghiệp cách mạng không chỉ một ngày một bữa mà đó là một sự
nghiệp lâu dài, tiếp nối từ thế hệ này sang thế hệ khác. Cho nên, Đảng phải
chăm lo xây dựng và phát triển lực lượng cho hiện tại và chuẩn bị cho tương lai
một thế hệ trẻ vừa “hồng” vừa “chuyên” -Đó là một lực lượng vừa trong sáng, mẫu
mực về đạo đức vừa giỏi về chuyên môn, nghiệp vụ, có như vậy mới thực hiện
thành công lý tưởng xây dựng một xã hội mới, tiến bộ, văn minh. Bác dặn: “Bồi dưỡng thế hệ cách mạng cho đời sau là
một việc rất quan trọng và rất cần thiết”, Đảng phải chăm lo giáo dục, bồi
dưỡng lý tưởng cách mạng, truyền thống yêu nước, giáo dục ý thức tự rèn luyện về
đạo đức cách mạng, vì đó là lực lượng kế tục sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã
hội, nên phải hết sức chăm lo.
Bác luôn dành tình cảm quý trọng đối với nhân dân; hy sinh
suốt cuộc đời cũng vì hạnh phúc nhân dân. Bác từng nói “Trong bầu trời không có
gì quí bằng nhân dân”. Bác lo cái ăn, cái mặc, cái ở, việc học hành của nhân
dân. Nên trong Di chúc, Bác cho rằng nhân dân lao động đã bao đời chịu nhiều
gian khổ, bị chế độ phong kiến và thực dân đàn áp bóc lột, nhưng một lòng, một
dạ theo Đảng, nên Đảng phải có kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội chăm lo đời
sống mọi mặt cho nhân dân… Viết về nhân dân rất ngắn ngọn nhưng đó là kết quả
của quá trình tư duy trong cuộc đời Bác.
Nội dung Di chúc là sự kết tinh tư tưởng của Bác về độc lập
dân tộc và Chủ nghĩa xã hội, vận dụng Chủ nghĩa Mác -Lênin vào hoàn cảnh cụ thể
Việt Nam.
Di chúc có giá trị văn hóa rất lớn. Đó là tinh thần nhân văn sâu sắc thể hiện
trong ứng xử với nhân dân, đồng chí, bè bạn quốc tế. Qua lời dặn dò về việc
riêng, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn đề cập đến việc xây dựng một đời sống văn hóa
mới; một lối sống tiết kiệm, không lãng phí.
Dù đã bốn mươi lăm năm trôi qua, nhưng giờ đây trong mỗi
chúng ta đều xúc động và thật tự hào khi nghe lại đoạn Điếu văn do đồng chí Bí
thư thứ nhất BCH TW Đảng - Lê Duẩn đọc khi tiễn biệt Người “đi gặp cụ Các-Mác, cụ Lênin và các vị đàn anh cách mạng khác”,
trong một sáng mùa Thu Hà Nội năm 1969, “Hồ
Chủ tịch là người sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện Đảng ta, là người xây dựng
nền Cộng hòa dân chủ Việt Nam và Mặt trận Dân tộc Thống nhất, là người cha thân
yêu của các lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Người là linh hồn, là ngọn cờ
chói lọi, lãnh đạo toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đoàn kết một lòng, chiến
đấu anh dũng, viết nên những trang sử vẻ vang nhất của Tổ quốc ta.
Dân tộc ta, nhân dân
ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại
và chính người đã làm rạng rỡ dân tộc ta, nhân dân ta và non sông đất nước ta”.
Người là tượng trưng
cho tinh hoa dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân
Việt Nam
suốt bốn nghìn năm lịch sử. “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Chúng ta thà
hy sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, không chịu làm nô lệ”. “Đó là
lời kêu gọi cứu nước khẩn thiết hiện nay của Tổ quốc, là lời hịch của ông cha
ta vang vọng từ ngàn xưa, là nghĩa vụ thiêng liêng của chúng ta đối với muôn
đời con cháu”.
Toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta đã tuyên thệ trước Anh
linh của Người là: “Giương cao mãi ngọn
cờ độc lập dân tộc, quyết chiến, quyết thắng giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền
Nam, bảo vệ miền Bắc, thống nhất đất nước để thỏa lòng mong ước của Người”,
và quyết tâm thực hiện lời hứa với Bác. Cuộc tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân
1975 lịch sử - bằng chiến dịch thần tốc mang tên Người, giải phóng hoàn toàn
miền Nam, đất nước ta sạch bóng quân thù, giang sơn thu về một mối. Chiến thắng
30-4-1975 có ý nghĩa lịch sử và tầm vóc to lớn như Đảng ta nhận định “thắng lợi của nhân dân ta trong sự nghiệp
chống Mỹ, cứu nước, mãi mãi được ghi vào lịch sử dân tộc ta như một trong những
trang chói lọi nhất, một biểu tượng sáng ngời của sự toàn thắng của Chủ nghĩa
anh hùng cách mạng và trí tuệ con người Việt Nam, đi vào lịch sử thế giới như
một chiến công vĩ đại của thế kỷ XX, một sự kiện quan trọng có tầm vóc quốc tế
to lớn và có tính thời đại sâu sắc”.Chúng ta đã thực hiện trọn vẹn hoàn bão
to lớn nhất của Bác là Tổ quốc được giải phóng, nhân dân được hạnh phúc. Bác
từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham
muốn tột bậc, làm sao cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta hoàn toàn tự
do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành”.
Sau ngày thống nhất đất nước, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân
ta bắt tay vào xây dựng lại đất nước sau hơn 20 năm chiến tranh tàn phá nặng
nề. Dù tình hình thế giới có nhiều diễn biến phức tạp, chúng ta vừa phải đối
phó với âm mưu thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, vừa tập trung phát
triển kinh tế, vừa phải làm nghĩa vụ quốc tế - nhưng chỉ trong thời gian ngắn,
chúng ta đã ổn định được tình hình mọi mặt, xây dựng toàn bộ cơ sở vật chất ban
đầu; thiết lập, củng cố và xây dựng chính quyền nhân dân trên phạm vi cả nước;
phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế; tiến hành thắng lợi các cuộc
chiến tranh bảo vệ Tổ quốc.
Trước sự khủng hoảng kinh tế ngày càng nghiêm trọng đầu thập
niên 80, do sai lầm trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, duy trì quá lâu cơ chế
tập trung quan liêu, bao cấp, chủ quan, duy ý chí, nóng vội… cùng sự bao vây
cấm vận các thế lực thù địch, tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI (1986),
Đảng ta đã đề ra chủ trương, đường lối đổi mới đất nước.
Công cuộc đổi mới ở nước ta gần 30 năm qua đã đạt được những
thành tựu quan trọng và có ý nghĩa lịch sử: Đã đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng
kinh tế - xã hội, kinh tế tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất - kỹ thuật được
tăng cường, đời sống của các tầng lớp nhân dân không ngừng được cải thiện; thực
hiện có kết quả chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần; phát triển nguồn
nhân lực, xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, xây dựng và từng bước hoàn
thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được xác định là
khâu đột phá và đạt nhiều thành tựu quan trọng; thực hiện có hiệu quả mối quan
hệ giữa tăng trưởng kinh tế với phát triển văn hóa, giữa tiến bộ và công bằng
xã hội; công tác giải quyết việc làm và xóa đói giảm nghèo đạt kết quả tích
cực; sự nghiệp giáo dục có bước tiến mới về qui mô, đa dạng hóa về loại hình
trường lớp; khoa học - công nghệ và tiềm lực khoa học - công nghệ có bước phát
triển nhất định; công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân có tiến bộ; bản sắc văn
hóa của các dân tộc được kế thừa và phát triển, từng bước xây dựng nền văn hóa,
con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước; giao lưu hợp
tác văn hóa với nước ngoài được mở rộng; quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng
với phương châm đa phương hóa, đa dạng hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội
nhập quốc tế. Việt Nam
là bạn, là đối tác và là thành viên có trách nhiệm với cộng đồng quốc tế. Đến
nay, Việt Nam có quan hệ ngoại giao với trên 180 nước, quan hệ kinh tế, thương
mại với trên 200 quốc gia, vùng lãnh thổ...; quốc phòng - an ninh được tăng
cường, bảo vệ toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ quốc gia, vị thế nước ta trên trường
quốc tế được nâng cao.
Thực hiện Di chúc của Bác, công tác xây dựng Đảng đã được
Đảng ta quan tâm, thông qua nhiều Chỉ thị, Nghị quyết quan trọng. Tại Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta khẳng định, lấy Chủ nghĩa Mác-Lênin và Tư
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng
ta và cách mạng Việt Nam.
Tiếp theo cuộc vận động xây dựng và chỉnh đốn Đảng theo Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII; Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI “Một số vấn đề cấp bách về
xây dựng Đảng hiện nay”; Bộ Chính trị (khóa X) ban hành Chỉ thị số 06-CT/TW về
mở Cuộc vận động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; Bộ Chính trị (khóa XI) ban hành Chỉ thị
03-CT/TW “về tiếp tục đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí
Minh”. Đảng ta chủ trương đưa việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức của
Bác trở thành công việc thường xuyên của các cấp ủy và của mỗi cán bộ, đảng
viên. Thời gian qua, Đảng ta lãnh đạo triển khai đồng bộ công tác xây dựng Đảng
và đẩy mạnh việc học tập, làm theo tấm gương đạo đức của Bác trong toàn Đảng đã
đạt nhiều kết quả tích cực. Đã có bước chuyển biến rõ nét trong thực hiện nhiệm
vụ chính trị và ý thức rèn luyện, tu dưỡng theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh
của cán bộ, đảng viên. Trung ương Đảng và Chính phủ đã “tuyên chiến” với tham
nhũng, tiêu cực trong Đảng, bộ máy Nhà nước và trong hệ thống chính trị, nhiều
vụ tham nhũng lớn được phát hiện và xử lý nghiêm; từ đó, đã góp phần ngăn chặn
và khắc phục một bước tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối
sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên. Các cấp ủy đã quan tâm nhiều
hơn đến việc phát hiện, ngăn chặn, xử lý tiêu cực, sai phạm; tinh thần tự phê
bình và phê bình của cán bộ, đảng viên có tiến bộ; việc thực hiện tiết kiệm, chống
lãng phí theo tấm gương của Bác đã có chuyển biến rõ nét; tinh thần, thái độ
phục vụ nhân dân, ý thức trách nhiệm với công việc được giao của cán bộ được
nâng lên. Đảng ta cũng tập trung xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
- Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân; đảm bảo mọi quyền lực thuộc
về nhân dân, thực hiện dân chủ, phát huy tính sáng tạo của nhân dân; đẩy mạnh
công tác cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính, lấy việc phục vụ nhân
dân làm thước đo năng lực và phẩm chất của cán bộ, đảng viên trên từng vị trí
công tác. Thành tựu lớn nhất trong xây dựng Đảng của Đảng ta theo Di chúc Chủ
tịch Hồ Chí Minh là 45 năm qua Đảng ta trên dưới một lòng, đoàn kết nhất trí và
không ngừng lớn mạnh, lãnh đạo cách mạng Việt Nam vượt qua những khúc quanh
nghiệt ngã của lịch sử, đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi hoàn toàn, thống
nhất đất nước, đưa nước ta tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
những thành tựu to lớn và có ý nghĩa lịch sử của sự nghiệp đổi mới gần 30 năm
qua.
Lịch sử dân tộc, đất nước ta và những sự kiện trong cuộc đời
của Bác đã có sự trùng hợp kỳ diệu. Ngày 2-9-1945, tại Quảng trường Ba Đình,
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đọc Bản Tuyên ngôn độc lập, khai sinh ra nước Việt Nam
Dân chủ Cộng hòa. Đúng hai mươi bốn năm sau, ngày 2-9-1969, Bác Hồ đã đi về cõi
vĩnh hằng từ khu vực nhà sàn đơn sơ cũng thuộc Quảng trường Ba Đình lịch sử.
Hai sự kiện này diễn ra vào hai thời điểm lịch sử khác nhau của đất nước, lịch
sử dân tộc, nhưng lại trùng hợp ngẫu nhiên như một quy định của lịch sử. Bác
lập nước ngày, tháng nào (2-9-1945) thì ra đi đúng ngày, tháng ấy (2-9-1969).
Năm nay, kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Chủ tịch Hồ
Chí Minh, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta cũng nhớ về sự kiện lịch sử cách
đây 69 năm, cuộc Tổng khởi nghĩa Cách mạng Tháng Tám thành công, Người đã long
trọng tuyên bố trước toàn thế giới khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và
đưa nước Việt Nam bước vào kỷ nguyên mới: Kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội.
Nhấn mạnh về ý nghĩa lịch sử của Cách mạng Tháng Tám, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã viết: “Chẳng những giai cấp lao động và nhân dân Việt Nam
có thể tự hào, mà giai cấp lao động và những dân tộc bị áp bức khác cũng có thể
tự hào rằng lần này là lần đầu tiên trong lịch sử cách mạng của các dân tộc
thuộc địa và nửa thuộc địa, một Đảng mới 15 tuổi đã lãnh đạo cách mạng thành
công, đã nắm chính quyền toàn quốc”. So với chiều dài lịch sử hơn bốn ngàn năm
dựng nước và giữ nước của dân tộc, 69 năm qua chỉ là chặng đường ngắn ngủi,
song với sự dày dạn kinh nghiệm, thông minh, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ
Chí Minh kính yêu, dân tộc Việt Nam đã vượt qua mọi thử thách hiểm nghèo, vươn
lên tầm cao lịch sử. Từ thân phận nô lệ, mất nước đã anh dũng đứng lên làm chủ
vận mệnh của mình, đã hiên ngang bước vào hàng ngũ các dân tộc tiên phong trên
thế giới, vừa làm tròn trách nhiệm đối với Tổ quốc, vừa cống hiến xuất sắc vào
sự nghiệp cách mạng thế giới.
Cùng ôn lại truyền thống vinh quang của dân tộc để rồi từ
đó, lòng mỗi người chúng ta thêm phấn khởi, tự hào, tin tưởng, nỗ lực phấn đấu
vươn lên lập nên những thành tựu mới trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với ngọn
lửa Cách mạng Tháng Tám rực sáng trong tim, chúng ta có quyền tự hào và tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng, phát huy Chủ nghĩa anh hùng cách
mạng, quyết tâm vượt qua mọi khó khăn, thử thách vươn lên trên bước đường xây
dựng quê hương, đất nước.
Qua 45 năm thực hiện Di chúc của
Chủ tịch Hồ Chí Minh, 69 năm xây dựng chính quyền cách mạng kể từ ngày đất nước
độc lập 2-9-1945, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre vô cùng tự hào cùng cả nước đã lập
được những thành tích xuất sắc trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc,
xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc. Cuộc Đồng Khởi 1960 là minh chứng hùng hồn
của Đảng bộ và nhân dân Bến Tre thực hiện Di chúc của Người “Đánh cho Mỹ cút, đánh
cho ngụy nhào”. Dưới ánh sáng Nghị quyết 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng,
khóa II, với sự mưu trí, sáng tạo, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre đã vùng lên làm
nên cuộc Đồng Khởi long trời, lở đất, giành thắng lợi vô cùng vẻ vang. Từ thắng
lợi Đồng Khởi ở Bến Tre - ngọn lửa Đồng Khởi đã lan khắp Nam Bộ - đưa cách mạng
miền Nam
từ thế bị động, phòng ngự sang thế tiến công, tiến công liên tục giành thắng lợi.
Thắng lợi Đồng Khởi 1960 là tiền đề
đưa đến chiến thắng Xuân Mậu Thân 1968 - từ Mậu Thân 1968, là tiền đề đưa đến Tổng
tiến công và nổi dậy Xuân 1975 bằng Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử, giải phóng
hoàn toàn miền Nam, thống nhất Tổ quốc là một lô-gíc của lịch sử. Đảng bộ và
nhân dân Bến Tre góp phần xứng đáng cùng toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực
hiện trọn vẹn Di chúc của Bác.
Sau ngày giải phóng, từ trong đổ
nát, hoang tàn do hậu quả chiến tranh, Đảng bộ và nhân dân tỉnh nhà đã
đồng tâm hiệp lực, phát huy cao độ trí tuệ và sức lực của các tầng lớp nhân
dân, hướng tới các mục tiêu là hàn gắn vết thương chiến tranh, khôi phục kinh tế,
đảm bảo ổn định chính trị, đã xây dựng lại quê hương Bến Tre - Đồng Khởi “đàng
hoàng hơn, đẹp hơn”.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, tất
cả mọi người đoàn kết, nỗ lực chung tay xây dựng quê hương và đặc biệt là trong
sự nghiệp đổi mới đã đạt được nhiều kết quả quan trọng trên tất cả các mặt
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh - quốc phòng. Những thành tựu trên
đã làm thay đổi một bước rõ nét bộ mặt đời sống vật chất và tinh thần của người
dân từ thành thị đến nông thôn, cả những vùng sâu, vùng xa từng là căn cứ kháng
chiến. Phong trào thi đua “Đồng Khởi mới” do Tỉnh ủy phát động, được các tầng lớp
nhân dân và các cấp, các ngành tích cực hưởng ứng. Với phương châm Nhà nước và
nhân dân cùng làm đã có hàng ngàn cây cầu bê-tông, hàng chục ngàn ki-lô-mét đường
nhựa, bê-tông ở nông thôn được xây dựng thay cho cầu khỉ, đường đất; phong trào
toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa được nhân dân hưởng ứng tích cực, đến
nay đã có 163/164 xã, phường đạt danh hiệu Xã văn hóa, 1 Huyện văn hóa; phong
trào xây dựng nông thôn mới được đẩy mạnh, đến nay có 4 xã đạt từ 15 đến 18/19
tiêu chí, dự kiến đến cuối năm 2014 sẽ đạt tiêu chí xã nông thôn mới. Sự nghiệp
giáo dục - đào tạo, chăm sóc sức khỏe nhân dân không ngừng phát triển đáp ứng
ngày càng tốt hơn nhu cầu học tập và khám chữa bệnh cho nhân dân. Quốc phòng -
an ninh luôn được tăng cường, đảm bảo ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội.
Phấn đấu thực hiện lời dặn của Bác “không ngừng nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần của nhân dân”. Đảng bộ đã quan tâm chăm lo phát triển kinh tế, xóa
nghèo, thời gian qua, đã xóa hàng chục ngàn hộ nghèo, xây dựng hàng ngàn nhà
tình nghĩa, tình thương cho các đối tượng chính sách, hộ nghèo, neo đơn; hộ
khá, giàu không ngừng tăng lên qua từng năm. Đặc biệt là “công việc đối với con người”
đã được thực hiện rất tốt về các chế độ, chính sách gia đình thương binh, liệt
sĩ và người có công, đến nay toàn tỉnh có trên 4.000 bà mẹ được tuyên dương Mẹ
Việt Nam anh hùng, trên 80.000 người có công được ghi nhận, tôn vinh, được hưởng
các trợ cấp ưu đãi và được sự chăm lo của các tầng lớp nhân dân, đã xây dựng
152 đền thờ liệt sĩ tại các xã, phường, thị trấn “để ghi ơn sự hy sinh anh dũng
của các liệt sĩ, để đời đời giáo dục tinh thần yêu nước cho nhân dân ta” đúng
như lời Bác căn dặn.
Nhiều công trình mang dấu ấn đã
và đang được xây dựng trên ba dải cù lao như: đường điện vượt sông Tiền, cống đập
Ba Lai, cầu Rạch Miễu, cầu Hàm Luông, cầu Bến Tre I, cầu Bến Tre II, 13 cầu
trên Đường tỉnh 883… Nổi bật là trong những năm qua, cùng với sự phát triển
chung của tỉnh nhà, thị xã Bến Tre đã có bước phát triển đáng kể trên các lĩnh
vực, được công nhận Thành phố trực thuộc tỉnh và đang hướng tới xây dựng Thành
phố văn hóa, đô thị loại II.
Đảng bộ Bến Tre luôn quan tâm
công tác xây dựng Đảng trong sạch vững mạnh. Thực hiện Nghị quyết Trung ương 6
(lần 2) khóa VIII, Nghị quyết Trung ương 4, khóa XI, Chỉ thị 06 của Bộ Chính trị
khóa X, Chỉ thị 03 của Bộ Chính trị, khóa XI, Tỉnh ủy và các cấp ủy đã lãnh đạo
quán triệt và đề ra chương trình, kế hoạch lãnh đạo thực hiện. Tất cả các cấp ủy
Đảng và cán bộ, đảng viên được tổ chức kiểm điểm, tự phê bình và phê bình
nghiêm túc, chỉ ra được ưu điểm, khuyết điểm và tìm ra những nguyên nhân hạn chế,
nhất là nguyên nhân chủ quan, từ đó, đề ra kế hoạch khắc phục cụ thể, việc nào
làm trước, việc nào làm sau. Ban Thường vụ Tỉnh ủy thường xuyên lãnh đạo, chỉ đạo
các cấp, các ngành, địa phương quan tâm lãnh đạo thực hiện việc đẩy mạnh việc học
tập và làm theo tấm gương đạo đức, phong cách Chủ tịch Hồ Chí Minh - xem đây là
nhiệm vụ thường xuyên của mỗi cấp, mỗi ngành và của mỗi cán bộ, đảng viên;
trong đó, đề cao vai trò nêu gương của cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp. Kết quả
trong các năm qua, nhất là sau kiểm điểm, tự phê bình và phê bình theo tinh thần
Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI, đã củng cố nhiều tổ chức cơ sở Đảng yếu kém,
nhiều vấn đề bức xúc được giải quyết, chất lượng hoạt động của chi, Đảng bộ được
nâng lên; công tác chính trị tư tưởng có nhiều tiến bộ, nhất là đổi mới và nâng
cao chất lượng học tập, quán triệt nghị quyết và xây dựng chương trình hành động,
kế hoạch thực hiện nghị quyết được nâng lên rõ rệt; nhận xét, đánh giá cán bộ, đảng
viên thực chất hơn; hàng trăm tập thể, hàng ngàn cá nhân tiêu biểu trong học tập
và làm theo gương Bác, ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư
tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, vô cảm trước bức xúc của nhân dân.
Kỷ niệm 45 năm thực hiện Di chúc của Bác, lại thêm một dịp
để mỗi chúng ta báo cáo với Bác những công việc mà mình đã thực hiện, đang thực
hiện và sẽ thực hiện theo lời dặn dò, nhắn nhủ và mong đợi của Bác. Đảng bộ và
nhân dân tỉnh nhà tự hào báo cáo với Bác về những thắng lợi và thành tựu đã
giành được trong 45 năm qua. Song, chúng ta cũng tự phê bình trước Bác rằng
chúng ta còn chưa làm được nhiều điều Bác dặn. Đáng quan tâm nhất là sự suy
thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống, tệ quan liêu tham nhũng, lãng
phí trong một bộ phận cán bộ, đảng viên đã có những ảnh hưởng đến việc nâng cao
năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân đối với Đảng, với chế độ; đời sống của một bộ phận nhân dân còn gặp nhiều
khó khăn đó là điều ray rứt của lãnh đạo tỉnh và những đảng viên chân chính
hiện nay… Mỗi người chúng ta thật thà tự phê bình và phê bình, xem xét lại mình
một cách nghiêm túc, thấy rõ khuyết điểm để sửa chữa, thấy rõ nhưng ưu điểm để
phát huy, thấy rõ trách nhiệm phía trước đối với Đảng và nhân dân còn rất nặng
nề, phải cố gắng thực hiện. Để thực hiện tốt hoài bão của Bác, mỗi cán bộ, đảng
viên phải ra sức trau dồi đạo đức để trở thành những đảng viên gương mẫu, quyết
tâm cùng toàn Đảng thực hiện trọn vẹn Di chúc của Bác. Mỗi cán bộ, đảng viên
phải thường xuyên nghiên cứu, thấm sâu hơn nữa, biến thành hành động thực tế
trong thực hiện tốt hơn Di chúc của Người. Hành động thiết thực nhất là tiếp
tục học tập và làm theo tấm gương đạo đức, tác phong của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Phẩm chất cao quý của Bác là trung với nước, trung với Đảng, hiếu với dân, “hết
lòng phục vụ nhân dân”; kiên định lập trường cách mạng; khiêm tốn, giản dị
trong cuộc sống hàng ngày; cần, kiệm, liêm, chính, chí công, vô tư; thương yêu
đồng chí, đồng bào hết mực. Đạo đức cao quý của Bác là “hy sinh tất cả vì độc
lập dân tộc, vì hạnh phúc của nhân dân”, “bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao
nhiêu quyền hạn đều của dân”. Cả cuộc đời Bác “chỉ có một ham muốn, ham muốn
tột bậc, là làm sao cho đất nước ta được hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn
toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn áo mặc, ai cũng được học hành”.
Học và làm theo tấm gương Bác về phong cách tư duy độc lập,
tự chủ, sáng tạo, học đi đôi với hành, gắn lý luận với thực tiễn; là gương sáng
về tinh thần cách mạng và khoa học; gương sáng về tinh thần học tập suốt đời;
một phong cách nói đi đôi với làm; một thái độ kiên quyết không khoan nhượng
chống chủ nghĩa cá nhân, tham ô, lãng phí; một phong cách ứng xử hài hòa, quý
trọng con người…
Tiếp tục đẩy mạnh “Học tập và làm theo tấm tương đạo đức Hồ
Chí Minh”. Với mục tiêu tạo sự chuyển biến rõ nét hơn nữa trong công tác xây
dựng Đảng, xây dựng Đảng bộ thực sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức, đoàn kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, có năng
lực lãnh đạo và sức chiến đấu cao, đội ngũ cán bộ, đảng viên có phẩm chất, năng
lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới.
Để tiếp tục thực hiện tốt việc đẩy mạnh học tập và làm theo
tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh, mỗi cấp ủy, đảng viên, các tổ chức Đảng, cơ quan
Nhà nước cần đẩy mạnh cải cách hành chính, xây dựng và nâng cao ý thức trách
nhiệm phục vụ nhân dân bằng việc làm thiết thực, hàng ngày tập trung giải quyết
dứt điểm những khiếu nại, tố cáo chính đáng của nhân dân; chống thái độ lãnh
đạm, vô cảm, quan liêu, mệnh lệnh, hách dịch, hành dân. Xây dựng tinh thần
thương yêu, đoàn kết, hợp tác với đồng chí, đồng nghiệp; chống chia rẽ, bè
phái, cục bộ, địa phương chủ nghĩa, hẹp hòi. Xây dựng tinh thần cần, kiệm, coi
trọng chất lượng, hiệu quả công việc; chống thói lười biếng, lãng phí, phô
trương, hình thức. Xây dựng tinh thần liêm, chính, khiêm tốn, thật thà, dũng
cảm; chống tham nhũng, dối trá, hối lộ, bê tha; khắc phục tình trạng nói không
đi đôi với làm, chạy theo danh vọng, địa vị, chức quyền, sa vào chủ nghĩa cá
nhân vị kỷ mà không chú trọng rèn luyện
và thực hành đạo đức cách mạng.
Quan tâm thực hiện lời Bác dặn về việc chuẩn bị một lực
lượng cho sự nghiệp cách mạng. Tiếp tục xây dựng thế hệ thanh niên Bến Tre giàu
lòng yêu nước, yêu quê hương; kiên định lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội; có đạo đức cách mạng, ý thức chấp hành pháp luật, sống có văn hóa, vì
cộng đồng; có năng lực, bản lĩnh trong hội nhập quốc tế; có sức khỏe, có tri
thức, kỹ năng và tác phong công nghiệp trong lao động, trở thành những người
công dân tốt của đất nước. Đảng bộ, chính quyền, các cấp ủy Đảng, đoàn thể và
cả xã hội có trách nhiệm chăm lo, tạo điều kiện, môi trường thuận lợi để thanh
niên được rèn luyện, cống hiến và trưởng thành; được học tập, có việc làm, nâng
cao thu nhập, có đời sống văn hóa, tinh thần lành mạnh.
Không ngừng nâng cao đời sống của nhân dân. Các ngành, các
cấp phải luôn nỗ lực trong chỉ đạo, điều hành thực hiện có hiệu quả các mục
tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội; trước hết là thực hiện thắng lợi
nhiệm vụ phát triển kinh tế - văn hóa năm 2014; đẩy mạnh các phong trào thi đua
quyết tâm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội IX Đảng bộ tỉnh. Quan tâm toàn
diện các mặt đời sống của nhân dân, có những chính sách hỗ trợ kịp thời cho các
đối tượng; đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo, cải thiện và nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần cho nhân dân, thực hiện tốt chính sách an sinh xã hội. Mỗi cán bộ,
đảng viên, mỗi người Bến Tre cần nhận thức rõ trách nhiệm của mình trong công
cuộc xây dựng và bảo vệ đất nước trước tình hình mới để phấn đấu thực hiện mục
tiêu Bác dặn trong Di chúc: “Xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập,
dân chủ và giàu mạnh”.
Di chúc của Bác Hồ là lời hịch vang dậy núi sông, là cương
lĩnh hành động trước mắt và lâu dài của Đảng và nhân dân ta. Mỗi điều Bác trăn
trở, dặn lại trong Di chúc đều chứa chan tấm lòng một hiền nhân đối với con
người, với thiên nhiên, với quê hương đất nước, phản ánh tư tưởng, tình cảm,
đạo đức và tâm hồn một người con ưu tú của dân tộc Việt Nam; hiện thân của tinh
thần, tài năng và tâm hồn của người dân Việt; hiện thân của tinh thần yêu tự do
tha thiết, bình dị mà vĩ đại. Đó là di sản bất hủ, đậm đà bản sắc dân tộc và thời
đại, “là sự thức tỉnh của nhân tâm, của trí tuệ, của dũng khí” của Người gửi
lại cho các thế hệ hôm nay và mai sau. Cuộc đời Người, với tất cả những gì
Người đã làm, đã nêu gương và để lại sẽ mãi mãi soi sáng đường chúng ta đi.