Bến Tre có hơn 163 ngàn hộ dân tham gia trồng dừa chiếm khoảng 40% dân số toàn tỉnh, với quy mô trung bình hơn 4.100m2/hộ.
Cây dừa phân
bố trên tất cả các huyện, thành phố nhưng tập trung chủ yếu là huyện Giồng
Trôm, Mỏ Cày Nam. Giá trị sản xuất từ cây dừa vào năm 2014 chiếm khoảng 12% so
với tổng giá trị sản xuất ngành nông nghiệp (bao gồm nông nghiệp - thủy sản).
Mỗi năm, người trồng dừa thu hoạch và bán cho các doanh
nghiệp (DN) thu mua xuất khẩu và DN chế biến trên 493,2 triệu trái, mang về cho
tỉnh gần 200 triệu đô-la trong tổng kim ngạch xuất khẩu 500 triệu đô-la của tỉnh.
Nhưng người trồng dừa không bán được trực tiếp sản phẩm đến nhà máy mà chủ yếu
thông qua các thương lái thu gom nên giá cả bấp bênh. Khi giá dừa tăng thì công
ty chế biến không thu mua được do nông dân trồng dừa chuyển hướng bán dừa trái
cho thương lái để xuất khẩu sang Trung Quốc. Ngược lại, khi giá dừa xuống thấp,
lượng thu mua của thương lái giảm xuống thì các công ty chế biến áp dụng nhiều
tiêu chuẩn phân loại nguyên liệu chặt chẽ, gây khó khăn cho người trồng dừa.
Để khắc phục những tồn tại trong sản xuất và tiêu thụ
nguyên liệu dừa, Sở Khoa học và Công nghệ đã phối hợp với Văn phòng UBND tỉnh
và ThS. Cao Văn Trọng - chủ nhiệm đề tài, thực hiện đề tài nghiên cứu: “Đánh
giá khả năng tham gia của người dân và DN trong thực hiện mô hình sản xuất,
tiêu thụ dừa trái theo hợp đồng trên địa bàn tỉnh Bến Tre”. Sau 12 tháng thực
hiện, đề tài đã xác định được thực trạng sản xuất và tiêu thụ dừa trái trên địa
bàn tỉnh, phân tích, đánh giá những ưu điểm, hạn chế trong nội dung hợp đồng
liên kết sản xuất, tiêu thụ dừa trái giữa Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu Bến
Tre với các hộ dân trồng dừa. Từ đó, nhóm nghiên cứu đã đề xuất 4 phương án nhằm
nâng cao hiệu quả tham gia sản xuất theo hợp đồng giữa hộ dân trồng dừa với các
DN.
Phương án thứ nhất: Hình thức liên kết “2 hợp đồng”,
nghĩa là DN ký hợp đồng với đại diện tổ hợp tác/tổ liên kết/hợp tác xã, sau đó
các tổ chức này sẽ ký hợp đồng với từng hộ dân trồng dừa. Ưu điểm của phương án
này là giải quyết kịp thời và nhanh chóng việc thu mua dừa trong dân, DN giảm
được nhân viên thu mua, từ đó giảm chi phí sản xuất của DN, góp phần tăng giá
thu mua dừa trong dân. Hạn chế của phương án này là đòi hỏi người đại diện phải
có năng lực điều hành, người đứng đầu tổ chức phải có uy tín, phải tạo được niềm
tin; có thể tốn thêm chi phí trung gian nhưng không lớn.
Phương án thứ hai: DN ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm với
người dân trồng dừa và ủy quyền cho thương lái thu mua, DN kiểm soát giá thu
mua của các thương lái. Phương án này có ưu điểm là phù hợp với nhiều loại hình
DN, đặc biệt DN chỉ chế biến các sản phẩm từ cơm dừa. DN dễ dàng kiểm soát được
nguồn gốc dừa của người dân, giá thu mua dừa trái của thương lái thông qua định
giá thu mua cơm dừa (quy đổi ra sản lượng dừa trái), giá thu mua gáo, chỉ xơ dừa
(từ giá các loại sản phẩm này sẽ tính ra được giá dừa trái). Sản lượng dừa của
người dân ký hợp đồng sẽ được bao tiêu và thu mua kịp thời, không bị tồn đọng.
Nhưng nếu người dân và DN không thương thảo trực tiếp về giá bán và DN không kiểm
soát chặt chẽ dễ dẫn đến người dân bị ép giá.
Phương án thứ ba: Hợp đồng đa chủ thể trực tiếp với từng
hộ dân trồng dừa, nghĩa là DN ký kết hợp đồng trực tiếp với từng hộ dân. Tuy
nhiên, do đặc điểm người dân trồng dừa Bến Tre có quy mô nhỏ (trung bình khoảng
0,4ha/hộ) nên rất khó thực hiện đại trà vì DN không đủ nhân lực để thực hiện,
có thể dẫn đến sự chậm trễ trong thu mua dừa của dân; DN có thể tăng nhân sự, tốn
kém thêm chi phí trung gian và có rủi ro trong việc thanh toán tiền cho người
dân.
Phương án thứ tư: DN ký hợp đồng với thương lái và thương
lái ký hợp đồng với người dân trồng dừa (DN xác nhận bảo lãnh thu mua dừa và
bao tiêu sản phẩm). Nhược điểm của phương án này là giá dừa người dân trồng dừa
bán không phải là giá DN mua và chắc chắn rằng giá sẽ thấp hơn.
Qua các phương án nêu trên, phương án 1 và phương án 2 là
có tính khả thi cao và phù hợp với điều kiện sản xuất của DN và người trồng dừa
trên địa bàn tỉnh. Đối với DN có khả năng chế biến và tiêu thụ hết các sản phẩm
từ dừa trái thì phương án 1 và phương án 2 là những phương án phù hợp nhất. Tùy
từng vùng và nhu cầu của người dân, DN có thể áp dụng đồng thời cả hai phương
án. Đối với DN chỉ sản xuất và tiêu thụ cơm dừa thì nên chọn phương án 2.
|
Kết quả đề tài này là cơ sở để
ngành chức năng, DN, người dân củng cố, ổn định và phát triển mạnh mẽ các mô
hình liên kết, từ đó góp phần thúc đẩy phát triển ổn định và bền vững ngành dừa
tỉnh Bến Tre, tạo công ăn việc làm ổn định và nâng cao thu nhập người dân trồng
dừa, người lao động và DN chế biến dừa.
|