Hội
nhập, cạnh tranh, phát triển hay tụt hậu đang là thời cơ và thách thức lớn của
nền nông nghiệp Việt Nam mà ĐBSCL là trọng điểm. Hệ quả tích cực hay tiêu cực của
hội nhập quốc tế và khu vực ASEAN như thế nào phụ thuộc vào việc tận dụng thời
cơ, vượt qua thách thức của vùng này trong thời gian tới.
Tình
hình phát triển nông nghiệp ĐBSCL thời gian qua
Thực hiện Nghị quyết số 21-NQ/TW của Bộ Chính
trị về “Phương hướng, nhiệm vụ, giải pháp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm
an ninh, quốc phòng vùng ĐBSCL”, Đảng bộ, chính quyền các cấp và nhân dân trong
vùng ĐBSCL đã nỗ lực phấn đấu, thực hiện sáng tạo các chủ trương, nghị quyết của
Đảng và Nhà nước, đã đạt được nhiều thành tựu to lớn, có ý nghĩa rất quan trọng
trong việc tạo ra bước đổi mới toàn diện cho cả vùng, nhất là những thành tựu
vượt bậc về sản xuất nông, thủy sản, góp phần đáng kể vào thành tựu chung của cả
nước.
Nông dân ĐBSCL ngày càng tiếp cận và ứng dụng
nhanh hơn với những tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ. Đặc biệt gần đây,
mô hình “Cánh đồng mẫu lớn”, “Cánh đồng lớn” đạt được thành công bước đầu rất
quan trọng trong liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo, gắn sản xuất với thị trường,
nông dân, nhà khoa học với doanh nghiệp. Mô hình “Cánh đồng lớn” không chỉ giới
hạn ở sản xuất lúa mà còn được áp dụng đối với nhiều mô hình sản xuất khác như:
mía đường, chăn nuôi và thủy sản. Xây dựng nông thôn mới bước đầu tạo ra diện mạo
mới với 19 tiêu chí quốc gia, tạo ra không gian sống, lao động sản xuất và hưởng
thụ vật chất văn hóa, tinh thần tốt hơn cho người dân.
Tuy nhiên, vùng này cũng còn nhiều tồn tại, yếu
kém và đứng trước nhiều thách thức trong phát triển và hội nhập, cạnh tranh. Đó
là: tăng trưởng kinh tế thiếu vững chắc, tiềm năng và lợi thế của vùng chưa được
đầu tư, khai thác đúng mức, đúng tầm; kinh tế phát triển chủ yếu theo chiều rộng.
Việc đầu tư và ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ tạo ra giá trị gia tăng
không cao. Hệ thống kết cấu hạ tầng thiếu đồng bộ, nhất là hạ tầng về giao
thông, thủy lợi. Giá trị sản xuất nông nghiệp thiếu tính ổn định và có nguy cơ
bị thu hẹp diện tích sản xuất do tác động của tình trạng biến đổi khí hậu, nước
mặn xâm nhập, môi trường ngày càng ô nhiễm.
Mức đầu tư cho vùng ĐBSCL còn thấp, đặc biệt
là vốn đầu tư cho nông nghiệp chiếm tỷ trọng thấp so với tổng đầu tư toàn xã hội.
Công nghệ chế biến còn khá lạc hậu, giá thành nông sản còn cao, năng suất lao động
và hiệu quả sản xuất còn thấp; tỷ lệ hao hụt, thất thoát sau thu hoạch còn lớn.
Ngoài ra, hệ thống cơ chế, chính sách trong nông nghiệp còn bất cập đã ảnh hưởng
đến sức hút đầu tư của các doanh nghiệp trong và ngoài nước vào lĩnh vực này.
Nông dân sản xuất nhỏ lẻ, manh mún, không đồng bộ, khó kết nối với thị trường
trong và ngoài nước... Hệ thống giao thông ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó
khăn; thông tin về thị trường hạn chế, gây ảnh hưởng lớn đến việc tiêu thụ sản
phẩm của nông dân, khó tạo điều kiện liên kết chặt chẽ giữa người nông dân và
doanh nghiệp trong chế biến và tiêu thụ sản phẩm. Nguồn lực lao động trong nông
thôn đang có xu hướng giảm, một bộ phận không nhỏ lao động trẻ ở nông thôn rời
bỏ ruộng vườn ra thành thị, gia nhập đội ngũ lao động phổ thông di dân đến làm
việc tại các thành phố lớn ngày càng tăng.
Nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế trên, ngoài
xuất phát điểm thấp, cơ cấu kinh tế chủ yếu dựa trên sản xuất nông nghiệp truyền
thống, còn do những cơ chế, chính sách nhằm phát huy lợi thế, tiềm năng của
vùng ĐBSCL còn thiếu và chưa đồng bộ; có mặt chưa phù hợp với đặc điểm, yêu cầu,
nhiệm vụ của vùng; sự phối hợp của các bộ, ngành Trung ương thiếu chặt chẽ
trong sự liên kết vùng và liên ngành… Trước những khó khăn, thách thức đang đặt
ra cho ngành Nông nghiệp vùng ĐBSCL, yêu cầu cấp thiết và mang tính tất yếu là
phải thực hiện tái cơ cấu nông nghiệp, tăng cường liên kết vùng. Liên kết vùng
không chỉ nhằm phát huy lợi thế của từng địa phương trong vùng mà còn phát huy
lợi thế vùng và quốc gia…
Một số
định hướng, giải pháp thực hiện thời gian tới
Để tái cơ cấu và phát triển bền vững nền nông
nghiệp ĐBSCL, chủ động hội nhập, cạnh tranh, hướng tới xây dựng một nền nông
nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, hiệu quả và bền vững, xin đề xuất một số định hướng,
giải pháp sau:
Một là, quy hoạch lại sản xuất nông nghiệp
theo vùng, theo quy mô liên kết vùng trên cơ sở gắn với cung - cầu thị trường.
Bên cạnh đó, các địa phương cần tạo môi trường thuận lợi để thiết lập và tăng
cường các mối liên kết giữa doanh nghiệp với doanh nghiệp, giữa doanh nghiệp với
người dân, giữa người dân với người dân, nhằm tổ chức, hình thành mối liên kết
giữa sản xuất, chế biến và bao tiêu sản phẩm chặt chẽ hơn.
Hai là, trên cơ sở Điều 52 Hiến pháp năm 2013
về “tăng cường liên kết kinh tế vùng”, các văn bản pháp lý của Chính phủ về
liên kết vùng, cần có quy chế liên kết vùng điều chỉnh trong một số lĩnh vực có
thế mạnh, nhất là trong nông nghiệp, thủy sản và có thể triển khai ngay vào thực
tế để phát huy hiệu quả của các mô hình liên kết đã có.
Ba là, tái cấu trúc nông nghiệp ĐBSCL phải
theo hướng sản xuất hàng hóa lớn. Quá trình tái cơ cấu phải chú trọng đến việc
cải tiến, đổi mới cơ chế, chính sách nhằm đảm bảo tính hài hòa trong việc phân
chia lợi ích giữa các khâu trong chuỗi sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp,
ưu tiên cho chuỗi nông sản chủ lực lúa gạo, trái cây, tôm, cá tra.
Bốn là, tập trung cải tạo giống cây trồng, vật
nuôi, tạo và nhân nhanh các giống có năng suất, chất lượng và giá trị cao. Tăng
cường năng lực hợp tác nghiên cứu khoa học giữa các địa phương trong vùng, giữa
vùng ĐBSCL với các vùng miền khác trong cả nước. Đưa nhanh các công nghệ mới
vào tất cả các khâu: sản xuất, thu hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và
tiêu thụ sản phẩm.
Năm là, xây dựng và thí điểm các khu nông
nghiệp công nghệ cao dựa vào những tiến bộ khoa học - công nghệ mới, nhất là
công nghệ sinh học, các mô hình liên kết, quản lý theo tiêu chí hiện đại dựa
vào tri thức mới.
Tầm nhìn dài hạn và bức xúc trước mắt cho một
ĐBSCL phát triển an toàn, trù phú và bền vững trước tác động xấu của thiên tai
và nhân tai đang đòi hỏi phải thực hiện tái cơ cấu nền nông nghiệp. Phát triển
bền vững vùng ĐBSCL trên cơ sở tăng cường liên kết vùng đang là đòi hỏi tất yếu
khách quan.