 |
| Mẹ Lê Thị Đa. Ảnh: Huỳnh Thi |
Vượt cạn và nuôi dạy con khôn lớn là một cuộc hành trình dài, đầy gian khổ mà người mang thiên chức làm mẹ phải trải qua. Dù biết rằng chiến tranh là mất mát, đau thương, nhưng khi Tổ quốc cần, các mẹ sẵn sàng động viên, khuyến khích các con - máu thịt của mình lên đường đi làm nghĩa vụ. Trong khi các con đang đối mặt với kẻ thù thì ở nhà các mẹ cũng làm nhiều công việc “thầm lặng” cho cách mạng.
Trước cái chết, mẹ chỉ nghĩ đến con
Bước vào tuổi 82, mẹ Lê Thị Đa, quê ở Thạnh Ngãi (Mỏ Cày Bắc) vẫn có thể đi chợ và lo cơm nước cho mình. Không có con cái ở gần, nên những lúc buồn, mẹ bầu bạn với khay trầu. Lâu lâu có khách đến nhà, mẹ Đa mừng rỡ, đon đả mời trà, bánh. “Cháu hỏi chuyện ngày xưa hả? Chết! mẹ còn nhớ gì đâu!”, mẹ nói gọn bân khi tôi hỏi chuyện của 35 năm về trước. Có thể chiến tranh ác liệt và cuộc mưu sinh vất vả mấy mươi năm qua đã bào mòn đi trí nhớ của mẹ? – tôi thầm nghĩ. Chắc vậy nên mặc dù đã rất cố gắng nhưng mẹ Đa vẫn không tài nào nhớ nỗi năm sinh, tháng đẻ của các con mình. Mẹ chỉ nhớ năm các con hy sinh: anh Huỳnh Văn Đang thoát ly gia đình, tham gia bộ đội và hy sinh vào tháng 7-1971; anh Huỳnh Văn Thanh là đội trưởng đội du kích xã, hy sinh vào tháng 6-1972; anh Huỳnh Văn Tiên làm công an xã được không lâu thì hy sinh vào tháng 10-1974 khi đang làm nhiệm vụ. Cũng như những mẹ VNAH khác, mẹ Đa sao có thể quên được cảm giác đau đớn mỗi khi nhận tin báo tử - như ai cắt từng đoạn ruột. Mẹ dẫn tôi lên nhà trên, chỉ tay lên vách tường còn đậm màu sơn mới và nói: “Chiến tranh ác liệt quá, cả chồng và 3 đứa con của mẹ đã hy sinh, mẹ chẳng còn kỷ vật nào ngoài những huân chương, huy chương kháng chiến này. À quên, còn tấm hình của thằng Tiên nữa chứ. Tấm hình này mẹ nhờ người ta họa lại dựa trên tấm hình bị cháy xém còn sót lại trong ba lô của nó”.
Được ngồi cạnh mẹ Đa trong những ngày đất nước tưng bừng kỷ niệm 35 năm Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, tôi cảm thấy tự hào biết bao. Bởi, tôi biết, được hưởng trọn ngày vui hôm nay, đã có biết bao người mẹ Việt Nam mất chồng, mất con. Dù nỗi đau chồng chất nhưng trong số các mẹ có mấy ai chịu ngồi yên. Giống như mẹ Đa, bí mật làm công việc đặt thợ rèn mã tấu, mài dao phục vụ cho cách mạng. Chút ký ức xưa ùa về làm đôi mắt mẹ đỏ hoe: “Mỗi lần bị địch bắt, mẹ không sợ chết, mà chỉ đau thắt lòng khi nghĩ đến mấy đứa con”. Tấm lòng của mẹ Đa xưa nay là vậy! Bây giờ, dù đất nước hòa bình, trong lòng mẹ vẫn tràn đầy tình yêu đối với quê hương và các con. Còn chút sức khỏe, mẹ tận dụng làm mọi việc, hàng ngày chăm sóc từng gốc bưởi, gốc cam. Không muốn phiền con cháu, với tiền trợ cấp hàng tháng, mẹ đi chợ mua gạo, rau, cá... rồi nhóm lửa nấu cơm. Lắm lúc, mẹ còn trích ít tiền dành dụm gửi cho các cháu mua dụng cụ học tập. Mẹ nói với tôi, tuổi gần đất xa trời, lo cho con cháu yên ổn cuộc sống là mẹ mừng lắm rồi. Mẹ không ước ao gì ngoài một lần được ra thăm lăng Bác. Được vậy, có chết, mẹ cũng an lòng.
Mẹ mong một lần nữa được ôm con
Mẹ Đoàn Thị Cần, sinh năm 1912 trong một gia đình nông dân có truyền thống cách mạng ở xã Tân Thành Bình (Mỏ Cày Bắc). Tròn 18 tuổi, mẹ làm dâu tận ấp Tân Ngãi, xã Thạnh Ngãi. Ngoài đảm đương vai trò làm dâu, làm vợ, làm mẹ, mẹ Cần còn làm Tổ trưởng Ban quân lương cho ấp Tân Ngãi, ngày qua ngày âm thầm nuôi giấu cán bộ và bảo vệ cơ sở Đảng đang hoạt động bí mật ở nơi đây. Từ cuộc Đồng Khởi năm 1960 cho đến năm 1975, mẹ là cán sự Hội Nông dân và Hội Phụ nữ xã.
Mang nặng đẻ đau, nuôi dưỡng các con khôn lớn trong thời kỳ đất nước chìm trong chiến tranh, dù “máu chảy ruột mềm” mẹ vẫn một lòng khuyến khích các con vào quân ngũ. Năm 1963, mẹ tiễn con trai đầu lòng Nguyễn Văn Quang đi bộ đội, kế đến là anh Nguyễn Hoàng Mẫn đi giao liên khi đang ở tuổi niên thiếu, tiếp theo là anh Nguyễn Văn Tiện vào đơn vị Cơ động tỉnh, Tiểu đoàn 5 và anh Nguyễn Văn Tặng làm tiểu đội trưởng du kích xã Thạnh Ngãi; anh Nguyễn Văn Trắc làm thông tin viên cho Huyện đội; anh Nguyễn Văn Oai và anh Nguyễn Văn Hồng tham gia du kích ấp Tân Ngãi. Không cuộc tiễn đưa nào mẹ rơi nước mắt bởi mẹ cho rằng các con đi làm nhiệm vụ thiêng liêng, cho dù có hy sinh cũng là niềm vinh dự lớn của gia đình. Song, trong sâu thẳm - chỉ những ai đã từng làm mẹ mới hiểu, ngày nào đất trời còn vang tiếng súng là ngày đó trong lòng mẹ như có sóng. Mỗi lúc nhớ con da diết, mẹ biết làm gì hơn ngoài cố gắng làm tốt nhiệm vụ: chăm sóc chu đáo cho chiến sĩ, bộ đội từ miếng ăn, giấc ngủ.
Ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, các chiến sĩ ở chiến trường xa đã lần lượt trở về đoàn tụ với gia đình. Còn mẹ, có tới 7 người con tham gia chiến đấu nhưng chỉ có 4 người trở về. Cuộc đời mẹ Cần, có khó khăn nào chưa từng trải. 8 lần “đi biển mồ côi”, nhiều lần suýt chết trong gang tấc, mẹ không khiếp sợ bằng một lần nhận tin báo từ chiến trường. Chỉ trong 4 năm, từ 1968-1972, mẹ đã nhận đến 3 tin báo tử. Anh Mẫn hy sinh trong trận chống càn ở xã Tân Phú Tây vào năm 1972. Anh Tiện tham gia chiến đấu trong trận chiến ác liệt ở xã Khánh Thạnh Tân rồi nằm lại đó. Còn anh Tặng, đi bộ đội được 6 năm thì hy sinh trong trận chống càn ở ấp Thủ Sở xã Thạnh Ngãi. Mỗi lần nhận tin, tim mẹ tan nát, song, mẹ nghĩ đất nước còn lầm than, thương các con còn lại đang làm nghĩa vụ, mẹ kìm nén nỗi đau và tiếp tục sống.
Chiến tranh là mất mát, thương đau. Dẫu biết rằng các con mẹ đã hy sinh, nhưng ngày đất nước thống nhất, mẹ không thôi ước ao một lần được ôm chầm các con. Với tấm lòng ấy, dù hiện nay mẹ Cần không còn nữa nhưng trong lòng con cháu, mẹ vẫn luôn sống mãi. Mẹ được Đảng, Nhà nước ghi nhận, phong tặng cho mẹ danh hiệu “Mẹ Việt Nam anh hùng”, tặng mẹ Huân chương Kháng chiến. Mẹ cũng được Thành Đoàn TP.HCM tặng huy hiệu “Biết ơn mẹ” và Bảo tàng lịch sử TP.HCM tặng huy hiệu “Anh hùng trung hậu, đảm đang” cùng bảng vàng danh dự.
Làm sao có thể kể hết công lao của người mẹ đối với sự nghiệp cách mạng giải phóng đất nước. “Bản thân mẹ cũng không đòi hỏi gì từ những gì mình đã cống hiến, chỉ mong con cháu sau này học hành chăm, tiến bộ, luôn góp sức xây dựng quê hương”, mẹ Đa tâm sự.