.jpg)
Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ chỉ đạo tại hội nghị.
Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ, Phó bí thư Tỉnh ủy - Chủ tịch UBND tỉnh Trần Ngọc Tam chủ trì hội nghị.
Tại hội nghị, Phó chủ tịch Thường trực UBND tỉnh Nguyễn Trúc Sơn cho biết: Sau hơn 17 năm cụ thể hóa triển khai thực hiện Nghị quyết số 21, 13 năm thực hiện Nghị quyết số 26, 8 năm thực hiện Kết luận số 28, kinh tế - xã hội trên địa bàn tỉnh nói chung và lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nói riêng đã có nhiều chuyển biến tích cực. Nổi bật như số lượng doanh nghiệp, cơ sở sản xuất ngành công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp tăng từ 9.240 cơ sở năm 2002 lên 11.071 cơ sở năm 2020. Tốc độ tăng trưởng bình quân ngành nông nghiệp giai đoạn 2003 - 2020 đạt 3,5%/năm. Tỷ trọng nông nghiệp trong GRDP giảm từ 64,63% năm 2002 xuống còn 38,6% năm 2020.
Đến nay, toàn tỉnh có 58 xã đạt chuẩn nông thôn mới (NTM) và 1 xã đạt chuẩn NTM nâng cao (xã Phú Nhuận, TP. Bến Tre), huyện Chợ Lách đạt chuẩn NTM, TP. Bến Tre hoàn thành nhiệm vụ xây dựng NTM. Thu nhập người dân khu vực nông thôn tăng từ 10,14 triệu đồng năm 2018 lên 42 triệu đồng năm 2020.
Toàn tỉnh hiện có 23 đô thị (1 đô thị loại II - TP. Bến Tre), 3 đô thị loại IV (Ba Tri, Bình Đại, Mỏ Cày Nam); 19 đô thị loại V, tăng 15 đô thị so với thời điểm 2002…
Công tác giảm nghèo và chính sách xã hội được thực hiện kịp thời. Bình quân cả giai đoạn 2001 - 2020, tỷ lệ giảm hộ nghèo là 1,9%/năm, đạt chỉ tiêu đề ra (giảm từ 1,5 - 2%); tỷ lệ hộ nghèo cuối năm 2020 giảm còn 3,58%, tỷ lệ hộ cận nghèo còn 3,87%.
Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ nhận định: Công tác triển khai, quán triệt, tổ chức thực hiện các nghị quyết, kết luận của Trung ương trên địa bàn tỉnh trong thời gian qua được các cấp, các ngành thực hiện nghiêm túc. Từ đó nâng cao hiệu quả công tác lãnh đạo, tạo sự đồng bộ trong điều hành, quản lý các hoạt động, góp phần đưa nghị quyết đi vào cuộc sống và mang lại những kết quả.
Bên cạnh kết quả đạt được, Bí thư Tỉnh ủy cũng chỉ ra những hạn chế như: Kinh tế phát triển chưa toàn diện, quy mô kinh tế còn thấp, đến năm 2020 chỉ đứng thứ 11/13 tỉnh ĐBSCL; cơ cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng nhưng còn chậm, chưa đạt chỉ tiêu đề ra; GRDP/người còn thấp so với khu vực ĐBSCL. Tính bền vững trong công tác giảm nghèo chưa cao; đời sống một bộ phận dân cư, nhất là người nghèo ở nông thôn còn khó khăn, khả năng tái nghèo cao…
Để tiếp tục phát huy kết quả đạt được, thực hiện thắng lợi mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội tỉnh đến năm 2030, lãnh đạo một số sở, ngành, đoàn thể, địa phương trình bày tham luận về giải pháp phát triển kinh tế - xã hội trong thời gian tới.
Kết luận hội nghị, Ủy viên Trung ương Đảng - Bí thư Tỉnh ủy Lê Đức Thọ đề nghị: Các cấp ủy, chính quyền từ tỉnh đến cơ sở tiếp tục tập trung lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện đồng bộ nhiệm vụ và giải pháp đã đề ra. Tập trung hoàn thành và triển khai Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050, gắn với định hướng phát triển tỉnh về hướng Đông theo Nghị quyết số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy; tổ chức thực hiện bảo đảm tiến độ công trình và tiến độ giải ngân 11 công trình, dự án trọng điểm của Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI.
Tập trung triển khai thực hiện Nghị quyết số 07-NQ/TU ngày 29-1-2021 của Tỉnh ủy về xây dựng vùng sản xuất tập trung, gắn phát triển chuỗi giá trị nhóm sản phẩm nông nghiệp chủ lực tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025 và định hướng đến năm 2030. Khẩn trương xây dựng và đưa vào hoạt động Trung tâm Cây giống, hoa kiểng Chợ Lách mang tầm quốc gia; triển khai có kết quả chương trình phát triển thủy sản, trong đó tập trung phát triển 4.000ha nuôi tôm biển công nghệ cao. Phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của các hợp tác xã. Tập trung triển khai Chương trình số 09 của Tỉnh ủy về xây dựng NTM giai đoạn 2020 - 2025, đảm bảo đạt mục tiêu từng giai đoạn đề ra.
Tập trung triển khai chương trình của Tỉnh ủy về phát triển công nghiệp chủ lực, lực lượng doanh nghiệp của tỉnh giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030. Phát triển có chọn lọc một số ngành công nghiệp có hàm lượng khoa học công nghệ, công nghiệp xanh và giá trị gia tăng cao. Tập trung triển khai Đề án số 02 của Tỉnh ủy về phát triển du lịch tỉnh Bến Tre đến năm 2030, đưa du lịch trở thành ngành kinh tế mũi nhọn.
Phát triển giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ, bảo đảm an sinh xã hội và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao. Đầu tư đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp giáo dục đào tạo trong điều kiện tình hình mới, đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế.
Tập trung triển khai các phương án bảo vệ môi trường; quy hoạch và phát triển các khu xử lý chất thải; phân loại, xử lý rác thải tại nguồn gắn với xây dựng Bến Tre xanh; kiểm soát chặt các nguồn gây ô nhiễm môi trường trong sản xuất, kinh doanh, chăn nuôi, làng nghề, lưu vực sông, khu vực nông thôn; bảo vệ nghiêm ngặt nguồn nước ngầm, nguồn cung cấp nước ngọt phục vụ sinh hoạt, sản xuất.
Tích cực, chủ động hội nhập sâu rộng, tận dụng tốt cơ hội do các hiệp định thương mại để thúc đẩy giao thương và xuất khẩu; tăng cường xúc tiến kêu gọi đầu tư, liên kết hợp tác, thu hút các nguồn vốn nước ngoài.
Thực hiện tốt công tác đảm bảo quốc phòng, an ninh, xây dựng lực lượng vũ trang vững mạnh toàn diện, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới. Phát triển toàn diện kinh tế biển gắn với bảo vệ vùng biển, tài nguyên biển. Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trong điều kiện mới, tăng cường sự lãnh đạo của các cấp ủy hướng về cơ sở, phát huy phương châm “Tỉnh nắm đến xã, huyện nắm tới ấp, khu phố, xã nắm tới hộ gia đình”…
Tin, ảnh: C. Trúc