Tập trung triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp

20/06/2014 - 07:41
Mô hình nuôi tôm thẻ chân trắng ở xã An Điền (Thạnh Phú). Ảnh: H.H

Đề án Tái cơ cấu ngành nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững đã được Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn (NN&PTNT) phối hợp triển khai bước đầu có nhiều thuận lợi nhất định.

Các sở, ngành và các huyện, thành phố tập trung xây dựng và triển khai đề án theo kế hoạch đề ra. Đặc biệt, một số huyện xây dựng đề án sát hợp với tiềm năng lợi thế của từng địa phương rất cụ thể, đã xác định được nuôi con gì, trồng cây gì và liên kết sản xuất, tiêu thụ thế nào. Tuy nhiên, vài huyện còn lúng túng, chưa tìm ra được hướng đi phù hợp, hiệu quả.

Thủy sản vẫn là kinh tế mũi nhọn tạo bước đột phá

Sở NN&PTNT đã chọn kinh tế thủy sản làm mũi nhọn đột phá, các mô hình có hiệu quả đang được tập trung nhân rộng. Mô hình sản xuất tôm càng xanh ở Mỹ An, nuôi tôm càng xanh luân vụ với tôm sú trên ruộng lúa ở một số xã Thạnh Phú, nuôi tôm càng xanh trong vườn dừa ở Giồng Trôm, Mỏ Cày Nam đang tổng kết nhân rộng; mô hình nuôi tôm thích ứng với biến đổi khí hậu đang triển khai. Sở đã phối hợp với Viện Qui hoạch Thủy sản phía Nam rà soát, điều chỉnh qui hoạch chi tiết nuôi tôm thẻ chân trắng, thông qua vào tháng 6-2014. Sở cũng đã tập trung thực hiện chỉ đạo của tỉnh về việc giải quyết tình hình nuôi tôm thẻ chân trắng ngoài vùng qui hoạch. Đã khảo sát toàn tỉnh có 2.670 cây giống, trong đó trong vùng ngọt hóa 2.317 cây, các vùng nuôi còn lại 353 cây. Hiện các địa phương đã vận động 2.495 hộ/2.887 hộ của 6 huyện ký cam kết không đào mới và khoan giếng nước mặn, chiếm 86,42% tổng số hộ nuôi ngoài vùng qui hoạch. Ba Tri 217 hộ, Bình Đại 1.653 hộ, Giồng Trôm 359 hộ, Thạnh Phú 263 hộ, Mỏ Cày Nam 2 hộ, Mỏ Cày Bắc 1 hộ. Đồng thời, đã trám lấp giếng khoan 75/670 giếng. Tập trung triển khai thực hiện một số giải pháp cấp bách hỗ trợ người nuôi tôm ngoài vùng qui hoạch để chuyển sang các đối tượng nuôi khác. Đối với các vùng sản xuất lúa nhỏ lẻ kém hiệu quả, hệ thống thủy lợi chưa hoàn chỉnh, đất nhiễm mặn, phèn, thì người nuôi tôm thẻ chân trắng trong mùa nước mặn, khi mùa nước ngọt chuyển sang nuôi các đối tượng khác, như: ba ba, ếch, cá lóc, cá trê, tôm càng xanh. Tập huấn cho hộ nuôi ngoài vùng qui hoạch, tạo điều kiện để họ tiếp cận được qui trình nuôi nhằm hạn chế dịch bệnh trong thời gian chờ điều chỉnh qui hoạch chi tiết nuôi tôm thẻ chân trắng trong tỉnh. Xây dựng, triển khai các mô hình nuôi thủy sản nước ngọt và phổ biến nhân rộng mô hình trồng màu, chăn nuôi gia súc, gia cầm có hiệu quả trong vùng ngọt hóa để nâng cao đời sống nông dân. Phối hợp với các địa phương vận động xây dựng mô hình khai thác thủy sản theo hình thức tổ đội nhằm hỗ trợ, nâng cao hiệu quả khai thác và bảo vệ an ninh vùng biển. Đến nay, đã thành lập được 106 tổ hợp tác với 424 hộ (875 tàu), 6.433 lao động. Hỗ trợ, triển khai kế hoạch hoạt động cho 96 tổ hợp tác khai thác thủy sản, với 394 hộ, 813 tàu.

Xác định lại cây trồng chủ lực để khai thác có hiệu quả hơn

Tập trung chuyển đổi đất lúa kém hiệu quả, đất bìa chéo sang trồng cây khác có hiệu quả hơn. Triển khai kế hoạch rải vụ trên cây trái, đặc biệt là triển khai nhanh Dự án Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao. Tiếp tục xây dựng cánh đồng mẫu lúa, với diện tích 1.965ha. Vụ Đông - Xuân đã triển khai mô hình cánh đồng mẫu với diện tích 635ha, tại Giồng Trôm, Ba Tri, Bình Đại, năng suất bình quân đạt khá cao 60 tạ/ha. Chọn 3 giống lúa ngắn ngày chịu mặn cho 3 huyện biển và các vùng canh tác khó khăn, tổ chức trình diễn nhiều điểm giống chịu mặn. Trung tâm Nông nghiệp ứng dụng công nghệ cao đã chuẩn bị 1 tấn giống lúa OC 10 cấp siêu nguyên chủng, 10 tấn giống cấp nguyên chủng và trên 100 tấn giống cấp xác nhận để chuẩn bị đưa vào sản xuất cánh đồng lớn trong tỉnh. Đã phối hợp khảo sát để liên kết sản xuất, tiêu thụ lúa gạo.

Xây dựng cánh đồng mẫu lúa ở Ba Tri. Ảnh: Hữu Hiệp

Ổn định diện tích cây ăn trái, từng bước chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa tập trung, nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững. Các loại cây thế mạnh tập trung như sầu riêng, bưởi da xanh, măng cụt, chôm chôm, nhãn. Chú ý hiệu quả các mô hình sản xuất theo GAP. Hiện toàn tỉnh có 14 mô hình được cấp chứng nhận GAP, trong đó có 4 mô hình GlobalGAP, 10 mô hình VietGAP. Xây dựng chương trình phát triển bưởi da xanh giai đoạn 2014-2015 và đến năm 2020 nhằm tập trung phát triển theo chuỗi giá trị, nghiên cứu tuyển chọn dòng vô tính đặc trưng cho bưởi da xanh. Sản xuất cây đầu dòng và cung cấp cây giống, nguyên liệu giống cho nhà vườn. Xây dựng mô hình sản xuất ca cao đạt tiêu chuẩn UTZ, liên kết giữa doanh nghiệp và nông dân trong sản xuất sản phẩm ca cao. Liên kết 4 nhà trên sản phẩm bưởi tại Lương Hòa, Lương Quới, Bình Hòa (Giồng Trôm) với diện tích khoảng 200ha. Liên kết trên sản phẩm chôm chôm tại Vĩnh Bình, Phú Phụng, Sơn Định (Chợ Lách) với diện tích 300ha.

Đối với cây dừa cũng đã tổ chức liên kết 4 nhà tại xã Hữu Định (Châu Thành) với diện tích 600ha, tại xã Định Thủy (Mỏ Cày Nam) diện tích 500ha. Tiếp tục củng cố mô hình liên kết sản xuất, sơ chế, tiêu thụ 2.000ha tại các xã Hưng lễ (830ha), Lương Quới (320ha), Châu Bình (850ha). Triển khai Dự án thiết lập vườn dừa giống và bình tuyển cây mẹ để cải thiện giống dừa trong sản xuất đại trà. Khảo sát thực tế Dự án 10.000ha ca cao để có giải pháp xử lý kịp thời về hiệu quả. Lĩnh vực chăn nuôi được tập trung quan tâm nhiều nhất là đàn heo, đàn bò. Phát triển heo theo hướng trang trại, gia trại, ứng dụng công nghệ sinh học. Hiện toàn tỉnh đã có 50 hộ nuôi theo hình thức này ở Mỏ Cày Nam, bước đầu có hiệu quả cao. Mô hình nuôi heo trên đệm lót sinh học theo hình thức tổ hợp tác tại Cẩm Sơn có 31 hộ tham gia đã được ngành nông nghiệp dồn sức hỗ trợ, sau đó nhân rộng. Sở cũng đã triển khai chương trình liên kết xây dựng mô hình hợp tác xã, tổ hợp tác chăn nuôi ở Mỏ Cày Nam với tổng đàn trên 50.000 con nái sinh sản theo hướng an toàn dịch bệnh, an toàn vệ sinh thực phẩm. Hỗ trợ xây dựng mô hình ứng dụng qui trình VietGAP trong nuôi gia cầm để phòng chống dịch bệnh. Đồng thời, phối hợp triển khai chương trình liên kết tiêu thụ sản phẩm heo, bò tại Mỏ Cày Nam, Mỏ Cày Bắc, Ba Tri. Đã phối hợp với Công ty Vissan tổ chức triển khai chính sách thu mua bao tiêu sản phẩm, bước đầu có 3 trang trại có khả năng cung cấp từ 1.050 con - 1.280 con/năm. 

Chú trọng đầu tư phát triển ngành nghề nông thôn

Hiện trên địa bàn tỉnh có 50 làng nghề, trong đó có 32 làng nghề nông nghiệp và 18 làng nghề tiểu thủ công nghiệp. Nhiều làng nghề sản xuất ổn định và phát triển khá bền vững. Nhiều làng nghề hoạt động rất hiệu quả như làng nghề sản xuất chỉ xơ dừa An Thạnh, Khánh Thạnh Tân; làng nghề bó chổi cọng dừa Mỹ An, làng nghề đúc lu Hòa Lợi; làng nghề bánh tráng Mỹ Lồng, bánh phồng Sơn Đốc; làng nghề đan đát và sản xuất rượu Phú Lễ (Ba Tri). Tăng cường công tác khuyến nông - khuyến ngư và chuyển giao tiến bộ khoa học kỹ thuật đến người nông dân. Đã tổ chức 13 lớp tập huấn với 500 nông dân tham dự. Kết hợp mô hình trình diễn thâm canh tổng hợp theo hướng thích ứng với biến đổi khí hậu như mô hình nuôi lươn trong bể lót bạt xi-măng, nuôi tôm càng xanh bán thâm canh và ứng dụng hệ thống câu phao trong nghề câu mực. Tổ chức 59 cuộc sinh hoạt câu lạc bộ với 1.315 nông dân tham dự về phòng chống hạn mặn, bọ vòi voi hại dừa, sâu đục trái bưởi.

Theo đánh giá của Ban chỉ đạo Đề án, việc triển khai thực hiện đề án có nhiều thuận lợi trong điều kiện khí hậu, thời tiết, cây trồng, vật nuôi khá ổn định. Đặc biệt, nông dân là chủ thể trong tái cơ cấu ngành nông nghiệp cũng đã ý thức được phải thay đổi cây trồng, vật nuôi thế nào cho phù hợp, hiệu quả; đã thận trọng hơn trong việc lựa chọn giống cây trồng, vật nuôi, chú trọng môi trường, dịch bệnh, lịch thời vụ. Người dân đã bắt đầu quan tâm hơn về chủ trương của ngành nông nghiệp là đa dạng hóa đối tượng sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là việc chuyên canh, luân canh, xen canh để làm tăng thêm hiệu quả kinh tế hộ gia đình.

Tuy nhiên, một số chính sách hỗ trợ nông nghiệp chậm triển khai. Giá đầu vào, đầu ra đối với sản phẩm nông nghiệp không ổn định, gây nhiều khó khăn cho nông dân. Chưa chủ động nắm bắt thông tin thị trường, cơ chế, chính sách ràng buộc giữa doanh nghiệp, nông dân trong sản xuất, tiêu thụ chưa phát huy hiệu quả. Một số mô hình liên kết sản xuất tiên thụ gắn kết chuỗi giá trị sản phẩm chưa thật sự chặt chẽ, còn mang tính hình thức. Một số sở, ngành, địa phương chưa thật sự quan tâm việc ban hành kế hoạch triển khai Đề án. Điều rất đáng băn khoăn hiện nay là thực tế sản xuất nông nghiệp đã có sự thay đổi so với qui hoạch trước đây nhưng còn quá chậm trong rà soát, bổ sung, điều chỉnh. Việc phối hợp quản lý, triển khai và giám sát thực hiện qui hoạch còn nhiều lúng túng.

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN