|
Bà Nguyễn Thị Lệ Thủy - Phó trưởng Đoàn Đại biểu QH chuyên trách tỉnh Bến Tre. Ảnh: T. Trang |
Sáng 20-6-2017, Quốc hội (QH) thảo luận ở hội trường về dự án Luật Thủy sản (sửa đổi).
Đa số ý kiến đại biểu tham gia thảo luận đều
cho rằng trong bối cảnh nguồn lợi thủy sản ngày càng cạn kiệt, đánh bắt, nuôi trồng
thủy sản gần bờ gặp nhiều khó khăn thì sửa đổi Luật Thủy sản sẽ tạo động lực cần thiết cho phát triển bền vững
của ngành thủy sản.
Việc đề ra chính sách phát triển nuôi trồng và đánh bắt thủy
sản xa bờ gắn với bảo vệ chủ quyền biển, đảo và an ninh, quốc phòng là rất cần
thiết. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến đại biểu cũng đề nghị Ban soạn
thảo nghiên cứu, rà soát lại các quy định về việc thành lập và quản lý khu bảo tồn biển, khu bảo tồn thủy sản nội địa để không chồng chéo
với Luật Đa dạng sinh học.
Tham gia đóng góp ý kiến xây dựng dự thảo Luật, bà Nguyễn
Thị Lệ Thủy - Phó trưởng Đoàn đại biểu QH chuyên trách tỉnh Bến Tre có ý kiến
như sau:
Về kiểm ngư, đại biểu đề nghị cần có kiểm ngư cấp tỉnh ở
một số tỉnh có biển và một số tỉnh biên giới có sông lớn chảy qua nhiều quốc
gia, có nguồn lợi thủy sản phong phú để bảo vệ nguồn lợi thủy sản kết hợp với bảo
vệ an ninh quốc gia. Tuy nhiên để tránh trường hợp thành lập ồ ạt các chi cục
kiểm ngư cấp tỉnh, đầu tư mua sắm trang thiết bị nhưng không đủ nhân lực, không
đủ kinh phí hoạt động gây lãng phí, hoặc khi đã có kiểm ngư thì phó mặc cho kiểm
ngư, viện cớ không đủ nguồn lực mà lơ là trách nhiệm thanh tra chuyên ngành
vùng bờ dẫn đến hủy diệt nguồn lợi. Do đó đề nghị giao thẩm quyền cho Chính phủ
và phân cấp cho UBND cấp tỉnh, chỉ thành lập kiểm ngư cấp tỉnh theo phương án
không tăng biên chế theo Nghị quyết số 39, thành lập theo lộ trình, chỉ thành lập
khi đã đủ điều kiện và thật sự cần thiết, đã thành lập thì địa phương phải đảm
bảo điều kiện cho lực lượng kiểm ngư hoạt động, còn đối với các tỉnh chưa thành
lập lực lượng kiểm ngư cấp tỉnh, kiểm ngư vùng sẽ tăng cường hỗ trợ nhằm đảm bảo
tính liên tục.
Về
thẩm quyền giao, cho thuê mặt nước biển: Nghị định số 51/2014/NĐ-CP quy định
UBND cấp tỉnh có thẩm quyền giao, cho thuê vùng biển từ 3 hải lý trở vào; trong
khi Luật Tài nguyên môi trường biển và hải đảo quy định vùng biển ven bờ là vùng biển có ranh giới phía ngoài cách đường mép nước 6
hải lý do Bộ Tài nguyên và Môi trường xác định và công bố. Hơn
nữa vùng biển ven bờ cũng chịu sự quản lý chuyên ngành của nhiều bộ như Bộ Quốc
phòng, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Bộ Tài nguyên và Môi trường. Do
đặc thù của vùng này khó kiểm soát, ảnh hưởng đến an ninh, quốc phòng nên đề
nghị đối với các dự án giao, cho thuê mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản
trong vùng biển ven bờ phải xin chủ trương đầu tư và giao thẩm quyền cho Chính
phủ như quy định tại Điều 32 của Luật Đầu tư để có ý kiến các bộ, ngành trước
khi UBND tỉnh quyết định cấp chứng nhận đầu tư và chưa nên giao, cho thuê, cho
thuê lại, cho chuyển nhượng quyền sử dụng mặt nước biển cho nhà đầu tư nước
ngoài.
Về
cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mặt nước biển: hiện nay Luật Đất đai, Luật Đầu
tư và Luật Tài
nguyên môi trường biển và Hải đảo cũng chưa quy định về
việc cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng mặt nước biển, chưa có quy trình, thủ tục quy định việc cấp quyền khai thác và sử dụng mặt nước biển nuôi trồng thủy sản. Do
đó, đề nghị ban soạn thảo cần nghiên cứu kỹ và quy định trong luật để các quyền
của tổ chức, cá nhân được giao, cho thuê mặt nước biển để nuôi trồng thủy sản
tại Điều 46 được khả thi.
Về thu hồi mặt nước biển đã giao, cho thuê tại Điểm b, Khoản 1,
Điều 45: đề nghị nghiên cứu áp dụng Điểm i, Khoản 1, Điều 64 của Luật Đất đai,
thu hồi khi chủ đầu không sử dụng 12 tháng liên tục tính từ ngày được giao mặt
nước biển để nuôi trồng thủy sản. Quy định như vậy để tránh tình trạng đã xảy
ra trong thực tiễn gần đây nhà đầu tư lách luật, kéo dài thời gian triển khai
dự án bằng cách triển khai cầm chừng một vài hoạt động để giữ đất, giữ mặt nước và chuyển nhượng dự án...