Thế giới 7 tỷ người và bài toán mất cân bằng giới tính

03/11/2011 - 17:20

Theo tính toán của các nhà chuyên môn, đúng vào ngày 31-10-2011, thế giới chúng ta đã có 7 tỷ người cùng chung sống. Thế giới 7 tỷ người cũng đồng nghĩa với một cái bánh “trái đất” sẽ chia ra thành 7 tỷ “miếng”. Qua đây cũng khẳng định một điều: cuộc sống dần được phát triển tốt hơn, con người sống thọ hơn, lực lượng lao động của các quốc gia sẽ nhiều hơn, sản xuất ra nhiều của cải vật chất hơn…

Đó là mặt tích cực. Ngược lại, khi thế giới 7 tỷ người thì “cái bánh” phải chia 7 tỷ miếng cũng đồng nghĩa với việc sẽ giải quyết như thế nào về nạn cạn kiệt tài nguyên thiên nhiên, khoáng sản? Vấn đề giải quyết lao động cho thế hệ công dân đang lớn lên sẽ như thế nào? Cơ sở hạ tầng giao thông, nhà cửa, đất đai, nhà máy, hệ thống an sinh xã hội… không những chỉ là “chia nhỏ” hơn mà còn phải “mở rộng” hơn, đầu tư nhiều hơn?!... Đây là những vấn đề không phải chỉ giành cho ngành chức năng: dân số - kế hoạch hóa gia đình (DS-KHHGĐ), các địa phương, các cấp, mà còn chính là trách nhiệm, là nghĩa vụ của cả cộng đồng xã hội, của tất cả chúng ta hôm nay.

 

Nhiều đoàn y, bác sĩ đến các xã nông thôn khám, chăm sóc sức khỏe cho chị em phụ nữ. Ảnh: T.Long

 

Một vấn đề khác không kém phần quan trọng mà hiện nay ở một số nước châu Á đang được báo động. Đó là tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh.

Sau 50 năm (26-12-1961 - 26-12-2011) thực hiện công tác DS- KHHGĐ ở Việt Nam, mức sinh và tỷ lệ tăng DS đều giảm mạnh, tình trạng sức khỏe sinh sản, sức khỏe bà mẹ và trẻ em được cải thiện rõ rệt. Số con trung bình của một phụ nữ trong độ tuổi sinh là 2 con. Tuy nhiên, công tác DS- KHHGĐ của Việt Nam vẫn đang đứng trước nhiều thách thức: có sự chênh lệch lớn về mức sinh giữa các tỉnh và vùng miền. Đặc biệt, tỷ số giới tính khi sinh có xu hướng ngày càng tăng. Nếu năm 1979, tỷ số giới tính là (105 nam/100 nữ), thì năm 2009, tỷ số này đã tăng lên báo động: 110,5 và năm 2010 là 111. Nếu với đà tăng tỷ số như hiện nay và không có biện pháp can thiệp, thì đến giữa thế kỷ này Việt Nam sẽ có lượng nam giới nhiều hơn nữ giới từ 2,3 triệu đến 4,3 triệu người. Con số này cũng nói lên, trong 30 - 40 năm nữa sẽ có hàng triệu nam thanh niên Việt Nam không thể cưới được vợ.

Thời gian 10-15 năm trở lại đây, một số nước châu Á (Hàn Quốc, Malaysia, Trung Quốc…) đã và đang phải đương đầu với vấn nạn: thanh niên lớn lên nhưng không thể cưới được vợ, do tập tục trọng nam khinh nữ, do mỗi gia đình chỉ có 1-2 con nên chỉ sinh con trai để nối dõi tông đường. Và hệ lụy là thanh niên không thể cưới vợ là người đồng hương, phải cưới vợ là người “đồng châu lục”. Hàng năm, Việt Nam có cả ngàn cô dâu theo chồng về xứ người, trước tiên là do nhu cầu kinh tế, nhưng kế đến chính là tạo “sự cân bằng” tạm thời. Con gái Việt đi theo chồng là ngoại quốc, vậy có thể được không khi con trai Việt đi tìm vợ ở chốn năm châu?

Hệ quả của việc mất cân bằng giới tính khi sinh đã được Chính phủ tiên liệu từ ít nhất 40 năm qua và đã có nhiều nỗ lực để giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, trong quá trình triển khai vẫn còn một số “lỗ hổng” nên dẫn đến tình trạng như hiện nay. Thứ nhất, người ta tận dụng hệ thống máy móc siêu âm hiện đại, tối tân với công nghệ 3D, 4D nên việc xác định giới tính thai nhi quá dễ dàng. Hệ thống luật chưa có những ràng buộc chặt chẽ việc cấm xác định giới tính thai nhi và các biện pháp xử lý đi kèm. Tất cả các vấn đề này mới chỉ giới hạn trong vận động, giáo dục răn đe là chính. Thứ hai, ý thức người dân về vấn đề này hầu như còn rất mơ hồ, thậm chí không quan tâm, chỉ cần biết gia đình mình có con trai “nối dõi” thế là đủ. Vấn đề tuyên truyền về tác hại của mất cân bằng giới tính khi sinh hầu như mới chỉ bó hẹp trong hệ thống ngành y tế, DS- KHHGĐ, chưa có những kênh thông tin đại chúng tuyên truyền sâu rộng vấn đề này trong toàn cộng đồng, chưa có những pano trực quan tác động vào người dân trên các lĩnh vực đời sống. Xét về yếu tố “nghề nghiệp”, mất cân bằng giới tính khi sinh sẽ dẫn đến hiện tượng mất cân bằng cơ cấu DS, từ đó ảnh hưởng chất lượng DS, ảnh hưởng tới sức khỏe sinh sản của phụ nữ, trật tự xã hội…

Có nhiều nguyên nhân để dẫn đến tình trạng mất cân bằng giới tính khi sinh, trong đó không thể không nhắc tới là tập quán, tư tưởng trọng nam khinh nữ vẫn còn tồn tại. Bên cạnh đó, thực trạng này đang ngày càng gia tăng và gây hậu quả nghiệt ngã vì có sự trợ giúp của các phương tiện kỹ thuật hiện đại giúp các cặp vợ chồng sớm xác định giới tính thai nhi để quyết định “bỏ” khi không muốn đứa trẻ sinh ra là gái. Lại có một số cặp vợ chồng đi siêu âm với ý định cố sinh thêm để có con trai dẫn tới việc gia tăng tỷ lệ sinh con thứ 3 trở lên. 

Theo Tổng cục DS- KHHGĐ, để giải quyết tình trạng này ngoài nỗ lực của ngành Y tế còn rất cần sự quan tâm chỉ đạo sát sao của các cấp ủy, chính quyền và mỗi người dân trong thực hiện chính sách KHHGĐ. Đặc biệt, phải tăng cường các hoạt động tuyên truyền giáo dục cho người dân, đi sâu vào từng nhóm đối tượng, từng khu vực, để người dân hiểu hơn nữa chính sách DS- KHHGĐ, tiến tới xóa bỏ tư tưởng trọng nam khinh nữ. Công tác giáo dục nhận thức bình đẳng giới cho thanh niên, sinh viên, các cặp vợ chồng trẻ… cũng rất quan trọng, bởi lẽ họ là những người sẽ làm cha làm mẹ trong tương lai. 

Một giải pháp khác đó là đẩy mạnh công tác tuyên dương khen thưởng tập thể, cụm dân cư thực hiện tốt công tác vận động tuyên truyền cũng như áp dụng tốt các biện pháp nhằm ngăn chặn tình trạng sinh con theo ý muốân. Song song đó là đẩy mạnh tuyên truyền những phong tục, thói quen sinh hoạt truyền thống tích cực, hạn chế dần tư tưởng trọng nam khinh nữ, phát huy vai trò, vị thế của người phụ nữ trong xã hội. Việc khắc phục vấn đề mất cân bằng giới tính khi sinh chính là cơ sở để Việt Nam hoàn thành công tác bình đẳng giới, đảm bảo cơ cấu dân số hợp lý trong tương lai.

 

Lê Thanh An

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN