Trữ nước dự phòng
Trong đợt hạn mặn đầu năm 2016, hàng loạt ao nuôi cá lóc,
cá tra thương phẩm ven sông Cổ Chiên thuộc huyện Mỏ Cày Nam bị thiệt hại nghiêm
trọng. Trong khi đó, 3 ao nuôi cá lóc, với tổng diện tích khoảng 2.600m2 của
ông Võ Văn Loan, ở ấp An Trạch, xã Hương Mỹ khá an toàn, thu lãi hơn 400 triệu
đồng, nhờ quy trình nuôi có “nhín” phần đất ra làm ao lắng.
Ông Loan chia sẻ: Trong diện tích nuôi cá lóc thương phẩm,
tôi đã dành hơn 400m2 để làm ao lắng, xử lý nước trước khi cho vào trong ao
nuôi. Sau mỗi vụ thu hoạch, nước trong ao được tát cạn, bơm bỏ bùn và xử lý đáy
ao rất kỹ trước khi thả nuôi lại. Mật độ thả con giống 50 con/m2. Tôi thường
xuyên cập nhật thông tin liên quan đến thời tiết để xử lý bằng kỹ thuật trong
chăm sóc cá. “Cá nuôi được khoảng 20 ngày tuổi, đúng vào đợt mặn năm 2016 xâm
nhập sâu vào các cửa sông chính nhưng nhờ ao lắng luôn trữ nước dự phòng, đã
cung cấp đủ cho cá nuôi kéo dài hơn 3 tháng. Đến khi nước trong ao lắng kiệt
cũng là lúc độ mặn ở sông Cổ Chiên hạ xuống dưới 2%o. Rõ ràng, việc dùng ao lắng
vừa cung cấp lượng nước tốt nhất cho ao nuôi vừa là phương án dự phòng rất hiệu
quả nếu hạn, mặn kéo dài” - ông Loan quả quyết.
Ở Thạnh Phú, đợt hạn mặn năm 2016 diễn ra khá gay gắt
nhưng vẫn có hộ dân nuôi tôm càng xanh, tôm biển + lúa, thu được lợi nhuận.
“Tôm nuôi được 2 tháng tuổi, độ mặn ngoài sông lên đến hơn 25%o, nhờ quan tâm cải
tạo ao nuôi rất bài bản nên thiệt hại khoảng 60%, không phải trắng tay. Bên cạnh
đó, tôi đã mạnh dạn lấy nước máy bơm vào ao nuôi kết hợp với giải pháp kỹ thuật
diệt khuẩn, khống chế phèn từ lòng đất xì lên. Tôm thu hoạch, bán lãi 30 triệu
đồng. Năm nay, tôi tuân thủ nghiêm lịch thời vụ để né mặn, không để tái diễn
khó khăn như thế nữa” - ông Nguyễn Văn Bé, ấp Thạnh Mỹ, xã Mỹ An, huyện Thạnh
Phú chia sẻ.
Cá nâu giữ sạch đáy ao
Cá nâu có khả năng thích nghi môi trường nước, với độ mặn
dao động từ 2 - 10%o; ăn tạp chất và sinh vật nhỏ bé dưới đáy ao. Nắm được đặc
điểm này, một số nông dân ở huyện Ba Tri đã nuôi cá nâu như công cụ vệ sinh hiệu
quả vùng đáy ao nuôi tôm biển. “Nguy cơ ô nhiễm vùng đáy ao do tồn đọng thức ăn
thừa là nỗi lo lớn của nhiều hộ nuôi tôm nhưng điều đó đã được cá nâu hóa giải.
Vì vậy, môi trường nước luôn đảm bảo, tôm biển nuôi tăng trưởng rất nhanh.
Ngoài ra, cá nâu bán được giá khá cao và ổn định” - ông Nguyễn Ngọc Phúc ở xã
An Thủy, huyện Ba Tri - một trong những nông dân đã áp dụng thành công mô hình
cá nâu xen tôm biển cho biết.
Với mật độ thả nuôi cá nâu 5 con/m2, tôm sú 18 con/m2
(tôm sú thả sau cá khoảng 60 ngày) trong có diện tích 3.000m2, sau 8 tháng chăm
sóc, ông Phúc đã thu hoạch cá nâu nặng trung bình 7 con/kg (tỷ lệ sống khoảng
70%), tôm sú khoảng 25 con/kg (tỷ lệ sống khoảng 50%). Ngoài ra, sau vụ nuôi
chính, người dân có thể tận dụng diện tích mặt nước để thả nuôi những loài thủy
sản khác trong giai đoạn chuyển vụ để có thêm thu nhập. “Trong điều kiện môi
trường nước bên ngoài thường xuyên bị ô nhiễm do một số người nuôi xả thải, gây
ô nhiễm môi trường và dịch bệnh do biến đổi khí hậu, thì kỹ thuật nuôi xen này
đem lại kết quả khả quan. Tuy nhiên, cái khó hiện nay là giống cá nâu vẫn rất
hiếm” - ông Phúc cho biết thêm.
Tôm càng xanh bơi
trong vùng ngọt hóa
Phong trào nuôi tôm biển trong vùng ngọt hóa ở huyện Bình
Đại đã làm cho không ít nông dân ở đây mất nhiều hơn được. Nghiêm trọng hơn,
sau khi vùng đất được rửa sạch phèn mặn, những ao tôm biển bị bỏ bơ vơ giữa vườn
dừa trong sự kiệt quệ vốn đầu tư của người nuôi, nhiều nông dân đã không cân đối
được kinh phí để phục hồi nguyên trạng đất đai như cũ. Trong bối cảnh đó, Sở
Nông nghiệp và Phát triển nông thôn đã thực hiện các mô hình nuôi tôm càng xanh
toàn đực trong ao tôm biển. “Rõ ràng môi trường trong vùng ngọt hóa hiện nay chỉ
có thể phù hợp với con tôm càng xanh. Nhờ được Nhà nước hỗ trợ một phần, tôi nỗ
lực cải tạo diện tích ao nuôi và đã thành công trong điều kiện hết sức khó
khăn” - ông Nguyễn Văn Dứt ở ấp Bình Phú, xã Thạnh Trị, huyện Bình Đại phấn khởi
cho biết. Sau 5 tháng thả nuôi, với diện tích 3.000m2, mật độ 8
con/m2, ông Dứt thu được 452kg tôm thương phẩm (bình quân
khoảng 1,5 tấn/ha), giá bán 160 ngàn đồng/kg, trừ chi phí có lãi hơn 20 triệu đồng.
Tôm càng xanh toàn đực được những nông dân xem là vật cứu
tinh của mình, không ít người đã tìm được cơ hội trong nguy cơ bán đất trả nợ.
Tuy nhiên, hiện ở Bình Đại vẫn còn nhiều nông dân “nuôi tôm trong vùng ngọt
hóa” chưa thể khởi động nuôi tôm càng xanh do dư âm của con tôm biển để lại. “Nếu
cải tạo ao không tốt thì nuôi tôm càng xanh rủi ro rất lớn, chưa kể chi phí bỏ
ra cũng không phải ít. Một khó khăn nữa là nguồn con giống tôm càng xanh toàn đực
vẫn còn nhiêu khê” - ông Dứt chia sẻ.
“Trên đây là những mô hình nuôi thủy sản hiệu quả theo hướng
nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững trong điều kiện biến đổi khí hậu.
Thời gian tới, chúng tôi sẽ từng bước hướng nuôi theo quy hoạch, an toàn sinh học,
áp dụng tốt các tiêu chuẩn chất lượng, quy trình công nghệ đảm bảo an toàn môi
trường, an toàn dịch bệnh, đặc biệt là an toàn thực phẩm nhằm tạo uy tín với
người tiêu dùng để không ngừng mở rộng thị trường tiêu thụ sản phẩm, từng bước
nâng cao đời sống người dân, góp phần thắng lợi trong việc thực hiện Đề án tái
cơ cấu ngành nông nghiệp”, ông Huỳnh Văn Cung - quyền Chi cục trưởng Chi cục Thủy
sản (thuộc Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn) nói.