Qua tổ chức Đại hội công đoàn cơ sở và cấp trên cơ sở, Tiểu ban Nội dung đã tiếp nhận các ý kiến đóng góp của cán bộ, đoàn viên, công nhân, viên chức - lao động (CNVC-LĐ), cán bộ công đoàn lão thành nghỉ hưu của tỉnh, tập trung các nội dung sau:
Phần thứ nhất
Tình hình phong trào CNVC-LĐ và hoạt động công đoàn tỉnh Bến Tre 5 năm qua (2008-2013)
Về tình hình CNVC-LĐ:
Đa số nhất trí với phần đánh giá như trong văn bản đó là: đội ngũ CNVC-LĐ của tỉnh trong 5 năm qua tiếp tục có sự phát triển nhanh về số lượng và chất lượng, nhất là số lao động khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tăng cao. Cơ cấu lao động cũng khá đa dạng do tác động của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và quá trình thực hiện chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Trình độ và năng lực của đại bộ phận cán bộ, CNVC-LĐ không ngừng được nâng cao trong điều kiện đất nước gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) và hội nhập quốc tế. Số lao động có việc làm và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề tăng hàng năm. Điều kiện làm việc ở các cơ quan hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp (DN) cũng có nhiều chuyển biến so với trước, việc tiếp cận và ứng dụng công nghệ thông tin, khoa học kỹ thuật tiên tiến ngày càng hiệu quả. Chế độ, chính sách tiền lương, tiền công có được cải tiến nên thu nhập đời sống của đa số CNVC-LĐ không ngừng được nâng lên. Nhìn chung, tình hình tư tưởng chính trị, tâm trạng, nguyện vọng của cán bộ, CNVC-LĐ, đoàn viên khá ổn định, thể hiện sự lạc quan trước sự đổi mới của đất nước, có ý chí tự lực tự cường, năng động, sáng tạo, vươn lên khắc phục mọi khó khăn, thử thách để hoàn thành nhiệm vụ, góp phần đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội địa phương. Hầu hết CNVC-LĐ đều khẳng định sự ra đời của Nghị quyết 20-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương khóa X về “tiếp tục xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước” là bước ngoặt, là thời cơ để phát triển giai cấp công nhân Việt Nam nói chung và giai cấp công nhân Bến Tre nói riêng. Tuy chiếm tỷ lệ không cao so với dân số và lao động xã hội, nhưng giai cấp công nhân Việt Nam luôn là hạt nhân cơ sở chính trị - xã hội quan trọng của Đảng, giữ vai trò nòng cốt trong khối đại đoàn kết toàn dân và liên minh công - nông - trí thức, đi đầu trong sự nghiệp đổi mới, góp phần tích cực vào việc tăng trưởng kinh tế, phát triển văn hóa - xã hội, giữ vững an ninh chính trị của đất nước.
Đa số ý kiến cũng đồng tình với đánh giá cho rằng: Vấn đề tiền lương của CNVC-LĐ tuy có được điều chỉnh nhưng vẫn còn thấp so với sự biến động của giá cả thị trường nên chưa đảm bảo được cuộc sống tối thiểu và chưa thật sự là động lực kích thích người lao động. Vấn đề việc làm, nhà ở cho CNLĐ khu vực ngoài quốc doanh, điều kiện và thời gian làm việc của CNLĐ trong các DN, đơn vị sản xuất kinh doanh còn nhiều khó khăn hạn chế và bất cập nhưng chưa được các cấp, các ngành quan tâm, trách nhiệm của tổ chức Công đoàn trước thực trạng đó cũng chưa thể hiện rõ nét, còn lúng túng trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động. Số lao động qua đào tạo nghề còn thấp, phần lớn xuất thân từ nông dân lại thiếu điều kiện sinh hoạt, hội họp, ít được thông tin tuyên truyền nên nhận thức chính trị, ý thức giác ngộ giai cấp, sự hiểu biết về pháp luật còn hạn chế, kỷ luật lao động và tác phong công nghiệp còn yếu, trình độ của cán bộ, CNVC-LĐ có nâng lên nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển và hội nhập, khoảng cách giàu nghèo của CNVC-LĐ trong các ngành nghề chênh lệch ngày càng xa.
Thời gian tới, để đội ngũ CNVC-LĐ tỉnh nhà thực sự lớn mạnh, các cấp Công đoàn kiến nghị với Đảng, chính quyền, người sử dụng lao động quan tâm hơn đến đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động (nhất là khu vực ngoài quốc doanh và vốn đầu tư nước ngoài), tạo điều kiện cho CNLĐ tại các DN có thời gian học tập nâng cao trình độ chính trị, học vấn, chuyên môn nghiệp vụ để đảm bảo việc làm, nâng hiệu quả công việc trước tình hình mới; đồng thời quan tâm bồi dưỡng phát triển Đảng cho công nhân trực tiếp sản xuất và thành lập tổ chức Đảng trong các DN ngoài quốc doanh để lãnh đạo tổ chức Công đoàn hoạt động.
l Về kết quả thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII Công đoàn tỉnh:
Nhiều ý kiến cơ bản nhất trí với kết quả thực hiện các nhiệm vụ mà Nghị quyết Đại hội VIII, nhiệm kỳ 2008-2013 Công đoàn Bến Tre đã đề ra, nhưng cũng có các ý kiến bổ sung phần đánh giá như sau:
1. Vai trò của Công đoàn trong việc tham gia xây dựng chính sách pháp luật, thực hiện quy chế dân chủ cơ sở, thực hiện các chủ trương của Đảng, Nhà nước, của Công đoàn cấp trên có chủ động nòng cốt nhưng chưa đủ mạnh. Qua thực hiện chức năng kiểm tra, giám sát, các đề xuất, kiến nghị của Công đoàn về việc xử lý các trường hợp đơn vị, DN vi phạm pháp luật lao động chưa đạt hiệu quả cao. Ban thanh tra nhân dân đã thành lập nhiều năm nhưng hoạt động chưa rõ nét, chưa thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo Nghị định 99 của Chính phủ.
Về chăm lo đời sống, đại diện bảo vệ quyền lợi hợp pháp chính đáng cho CNVC-LĐ ngày càng được quan tâm nhiều hơn, như chăm lo xây dựng nhà “Mái ấm Công đoàn” cho CNLĐ, cũng như các hoạt động an sinh xã hội thiết thực nhân dịp lễ, Tết; nhất là “Tháng công nhân” đạt kết quả vật chất to lớn, ý nghĩa xã hội sâu sắc, sức lan tỏa của cuộc vận động ngày càng lớn rộng, thu hút sự quan tâm của các cấp ủy, chính quyền và toàn xã hội. Tuy nhiên, ở một số đơn vị bị giải thể, phá sản, quyền lợi của CNLĐ bị thiệt thòi nhưng chưa được các cấp Công đoàn quan tâm kiến nghị giải quyết. Trong các DN tư nhân, chế độ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế cho người lao động chưa được chủ DN thực hiện tốt nhưng Công đoàn và chính quyền chưa có giải pháp buộc chủ DN thực hiện.
Công đoàn tham gia thực hiện tốt công tác vận động phòng chống tham nhũng, lãng phí nhưng đối với các trường hợp cán bộ vi phạm thì Công đoàn chưa hoặc chậm phát hiện.
Việc vận động các nguồn quỹ của Công đoàn nói riêng và các quỹ xã hội khác có ý kiến cho là phù hợp và biểu hiện đồng tình, nhưng cũng có ý kiến cho rằng CNVC-LĐ hiện nay phải đóng quá nhiều quỹ (của Công đoàn và địa phương) trong khi đời sống còn nhiều khó khăn, đề nghị nên xem xét duy trì những quỹ thật cần thiết và cần công khai minh bạch việc sử dụng các nguồn quỹ đã vận động trong CNVC-LĐ.
Về chăm lo đời sống cho CNVC-LĐ, có nhiều ý kiến đề nghị quan tâm hơn nữa việc bảo vệ quyền lợi chính đáng đối với CNLĐ ngoài quốc doanh và Liên đoàn Lao động tỉnh nên chủ động đề xuất với Đảng, chính quyền quan tâm giải quyết các nhu cầu bức xúc về việc làm, nhà ở, cơ sở vui chơi, giải trí để phục vụ cho CNLĐ.
Về kết quả thực hiện
Nghị quyết Đại hỘI VIII Công đoàn tỉnh
2. Công tác tuyên truyền, phổ biến giáo dục pháp luật trong nhiệm kỳ qua được các cấp Công đoàn quan tâm đổi mới về nội dung, phương thức cho phù hợp với từng loại hình lao động và đối tượng lao động trong các thành phần kinh tế, góp phần đáng kể vào kết quả thực hiện phát triển kinh tế - xã hội của địa phương. Trong đó nổi bật là việc tuyên truyền về hoạt động Công đoàn trong tỉnh định kỳ trên Báo Đồng Khởi (2 kỳ/tháng); Đài Phát thanh và Truyền hình Bến Tre (1 kỳ/tháng). Tuy nhiên, việc tuyên truyền giáo dục chưa thật sâu sát nên tính hiệu quả chưa cao, nhất là đối tượng CNLĐ ngoài quốc doanh. Trong các doanh nghiệp, việc hỗ trợ đào tạo, bồi dưỡng nâng cao tay nghề cho CNLĐ còn hạn chế do thiếu kinh phí và không được doanh nghiệp đưa vào kế hoạch hoạt động hàng năm. Đời sống tinh thần của đại bộ phận CNLĐ còn thiếu thốn, tỉnh chưa xây dựng nhà văn hóa cho người lao động nên thành quả của sự đổi mới và phát triển kinh tế - xã hội chưa đến được với hầu hết người lao động.
3. Đối với công tác thi đua, hầu hết các ý kiến đều nhất trí, trong thời gian qua các phong trào thi đua do Công đoàn phát động có đổi mới về nội dung, hình thức và mang tính thiết thực, nên được đa số CNVC-LĐ, đoàn viên đồng tình hưởng ứng tham gia. Kết quả thi đua đã phản ánh được thực chất hoạt động của các đơn vị, địa phương, khắc phục được tính hình thức, nhưng thực tế chế độ khen thưởng chưa tương xứng với danh hiệu, còn ràng buộc bởi tỷ lệ nên chưa kích thích được đối tượng tham gia. Đề nghị cần điều chỉnh, sửa đổi quy chế thi đua, khen thưởng trong hệ thống Công đoàn cho phù hợp với tình hình hiện nay, cụ thể là tăng số lượng tập thể và cá nhân được các cấp Công đoàn khen thưởng hàng năm để tạo động lực tinh thần thúc đẩy CNVC-LĐ tích cực tham gia các phong trào và hoạt động công đoàn.
4. Đánh giá công tác phát triển đoàn viên và xây dựng CĐCS vững mạnh, đa số ý kiến tán thành số lượng CĐCS và đoàn viên Công đoàn nhiệm kỳ qua tăng nhanh, chương trình phát triển đoàn viên triển khai đạt kết quả tốt, chất lượng hoạt động CĐCS trong khối hành chính sự nghiệp, doanh nghiệp Nhà nước được nâng lên. Việc phát triển Công đoàn tại các khu công nghiệp vượt chỉ tiêu kế hoạch, nhưng một số nơi việc phát triển đoàn viên, thành lập CĐCS ngoài quốc danh còn chậm và gặp nhiều khó khăn, do chủ doanh nghiệp còn né tránh, e ngại khi thành lập Công đoàn, CNLĐ nhận thức về Công đoàn chưa sâu.
Có chú trọng nâng cao hiệu quả hoạt động Công đoàn, xây dựng CĐCS vững mạnh thông qua tổ chức Giải thưởng 28-7 hàng năm dành cho Chủ tịch CĐCS có thành tích xuất sắc trong tỉnh. Song, hoạt động Công đoàn trong nhiều doanh nghiệp khu vực ngoài Nhà nước còn khó khăn, hạn chế,… chưa bám chức năng nhiệm vụ do cán bộ Công đoàn hưởng lương của chủ doanh nghiệp nên chưa mạnh dạn trong đấu tranh bảo vệ quyền lợi người lao động, chưa đáp ứng được nguyện vọng của CNLĐ nên còn để xảy ra các vụ đình công, lãng công.
Đa số ý kiến cho rằng, trong nhiệm kỳ qua công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện của các cấp Công đoàn có kịp thời, sát cơ sở, tập trung trọng tâm, nhưng cũng có ý kiến đề xuất trong chỉ đạo không nên nặng hành chính sự vụ, cần giảm hội họp, báo cáo không thật sự cần thiết.
Phần thứ hai
mục tiêu, phương hướng nhiệm vụ của công đoàn tỉnh, nhiệm kỳ 2013-2018:
1. Về dự báo tình hình:
Đa số ý kiến cơ bản thống nhất dự báo tình hình như trong Dự thảo báo cáo.
2. Về mục tiêu, phương hướng tổng quát năm 2013-2018:
Đa số ý kiến cơ bản nhất trí với mục tiêu tổng quát; khẩu hiệu hành động là: “Tiếp tục đổi mới nội dung và phương thức hoạt động công đoàn, tất cả vì quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, CNVC-LĐ, vì sự ổn định và phát triển bền vững của tỉnh nhà”. Phương châm Đại hội là: “Dân chủ, đoàn kết, đổi mới, thiết thực” và những mục tiêu nhiệm vụ cụ thể trên từng lĩnh vực.
3. Một số chỉ tiêu chủ yếu của Tổ chức Công đoàn tỉnh trong nhiệm kỳ 2013-2018:
Đa số thống nhất, tuy nhiên có một số ý kiến yêu cầu xem xét các chỉ tiêu sau:
- Nâng chỉ tiêu phấn đấu 100% các doanh nghiệp có tổ chức công đoàn phải tổ chức Hội nghị NLĐ (Dự thảo 80% trở lên) theo Nghị định.
- Hạ chỉ tiêu gia đình cán bộ, CNVC-LĐ đạt chuẩn gia đình thể thao đạt 60% trở lên (Dự thảo 80% trở lên).
- Công tác tập huấn nghiệp vụ công đoàn cho cán bộ công đoàn là rất cần thiết, nhất là cán bộ CĐCS. Tuy nhiên, chỉ tiêu đưa ra phải đạt 100% là khó khả thi, đề nghị nên đưa chỉ tiêu đạt từ 95% trở lên, vừa mang tính khả thi và cũng đảm bảo theo yêu cầu chung.
Đề nghị bổ sung thêm chỉ tiêu 100% cơ quan, đơn vị; 80% doanh nghiệp đạt chuẩn văn hóa; nên nêu chỉ tiêu cụ thể về phong trào thi đua nghiên cứu khoa học, sáng kiến kinh nghiệm và công trình, sản phẩm.
4. Nhiệm vụ chủ yếu của Công đoàn tỉnh nhiệm kỳ 2013-2018:
Đa số ý kiến thống nhất như Dự thảo: bảy nhiệm vụ và giải pháp chủ yếu đã nêu là đầy đủ và phù hợp, thứ tự các nhiệm vụ và giải pháp là hợp lý. Tuy nhiên, không cần lặp lại các chỉ tiêu đã nêu ở phần trên.
5. Một số ý kiến kiến nghị, đề xuất:
5.1. Đối với LĐLĐ tỉnh:
- Cần cải tiến hình thức tuyên truyền giáo dục, có chọn lọc nội dung, nhất là đối với khu vực ngoài quốc doanh.
- Cần xem xét sửa đổi quy chế thi đua, khen thưởng trong hệ thống công đoàn cho phù hợp, cụ thể là cần tăng tỷ lệ khen thưởng để làm đòn bẩy thúc đẩy phong trào thi đua trong tổ chức công đoàn hiệu quả hơn.
5.2. Đối với UBND tỉnh:
- Tạo quỹ đất và chỉ đạo các ngành chức năng tạo điều kiện xây dựng nhà ở, khu văn hóa - thể thao cho CNLĐ các khu công nghiệp; các khu nhà lưu trú cho CNLĐ nên gắn liền khu giải trí, trung tâm văn hóa, thư viện,…
- Quy chế thi đua khen thưởng hiện hành: quy định chiến sĩ thi đua cấp tỉnh 3 năm liền phải được Hội đồng công nhận sáng kiến cấp tỉnh công nhận, thực tế cán bộ CNVC làm việc ở các cơ quan Đảng, đoàn thể, Khối văn hóa xã hội khó đạt theo yêu cầu; đề nghị nên xem xét lại.
- Chỉ đạo các ngành chức năng triển khai học tập Bộ luật Lao động (sửa đổi), Luật Công đoàn (sửa đổi) năm 2012, trong cán bộ CNVC-LĐ; phối hợp với LĐLĐ tỉnh thường xuyên kiểm tra các đơn vị doanh nghiệp ngoài quốc doanh về việc thực hiện các chế độ chính sách đối với CNLĐ theo quy định của pháp luật.
- Có công văn chỉ đạo cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp đóng trên địa bàn tỉnh thực hiện đóng kinh phí công đoàn theo Khoản 2 Điều 26 Luật Công đoàn năm 2012.
5.3. Đối với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam:
- Xem xét lại quy chế tặng kỷ niệm chương vì sự nghiệp xây dựng tổ chức công đoàn cho các cá nhân tham gia đóng góp cho tổ chức công đoàn lâu năm, hiện nay quy chế chỉ xét cho cán bộ công đoàn từ tổ phó công đoàn trở lên, rất thiệt thòi cho cá nhân là đoàn viên công đoàn.
- Cho phép kết nạp đoàn viên công đoàn là cán bộ bán chuyên trách xã, phường, vì đây là nguồn kế thừa của xã, phường.
Trong quá trình hoàn thiện Dự thảo báo cáo, Ban Chấp hành LĐLĐ tỉnh đã ghi nhận, tiếp thu các ý kiến đóng góp nêu trên; đồng thời có nghiên cứu bổ sung những ý kiến phù hợp vào văn bản khi tiến hành chỉnh sửa. Xin báo cáo trình Đại hội nghiên cứu cho ý kiến.