Trăn trở cùng những tín hiệu vui

31/08/2015 - 07:16

Ngày càng có nhiều cơ sở sơ chế dừa tại địa phương.

Sau hơn một năm triển khai Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp theo hướng nâng cao giá trị gia tăng và phát triển bền vững, giai đoạn 2014-2015, định hướng đến năm 2020, Mỏ Cày Nam đã từng bước sắp xếp lại cơ cấu cây trồng, vật nuôi hợp lý hơn và đã có những tín hiệu đáng phấn khởi. Tuy nhiên, vẫn còn đó rất nhiều trăn trở, lo toan.

Thực hiện đạt hiệu quả bằng tổng lực

Thực hiện Đề án 6227 của UBND tỉnh, UBND huyện Mỏ Cày Nam đã xây dựng Kế hoạch số 125 về việc thực hiện Đề án tái cơ cấu, Kế hoạch số 126 về việc thực hiện liên kết “4 nhà” trên một số sản phẩm nông nghiệp giai đoạn 2014-2015. Mục tiêu hướng đến là phát triển nông nghiệp, nông thôn bền vững cả về tự nhiên và xã hội, đảm bảo môi trường sản xuất nông nghiệp và nông thôn trong sạch; phấn đấu xây dựng một nền nông nghiệp hiện đại, hiệu quả và chất lượng, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng trong nước và xuất khẩu; góp phần thực hiện chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng nông thôn mới.

Qua triển khai, các cơ quan, ban, ngành, đoàn thể huyện, các xã, thị trấn và nhân dân nắm rõ: Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp là tổ chức, sắp xếp lại sản xuất nông nghiệp theo hướng kết hợp giữa chiều rộng với chiều sâu, quy hoạch vùng, áp dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất để tăng giá trị sản phẩm. Các xã, thị trấn đã tùy theo điều kiện của từng địa phương, xây dựng các kế hoạch cho thật sát thực và phù hợp với đặc điểm từng vùng. UBND huyện cũng đã tham mưu Huyện ủy ban hành Chỉ thị số 07 về việc nhân rộng mô hình phát triển kinh tế có hiệu quả, Chỉ thị số 09 về việc thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp gắn với xây dựng nông thôn mới giai đoạn 2014-2015 và hướng đến năm 2020. Trên cơ sở đó, việc thực hiện chủ trương tái cơ cấu ngành Nông nghiệp ở huyện Mỏ Cày Nam đã tiến hành bằng cả hệ thống chính trị từ huyện đến cơ sở.

Thời gian qua, huyện thu hút được nhiều nguồn vốn, đã tổ chức 3 cuộc tọa đàm nông nghiệp và 268 lớp tập huấn chuyển giao khoa học kỹ thuật, sinh hoạt câu lạc bộ nông dân trên lĩnh vực chăn nuôi, trồng trọt, thủy sản với 7.426 lượt người tham dự; tổ chức 4 lớp dạy nghề nông nghiệp cho 89 học viên lao động nông thôn tại xã Thành Thới B, Bình Khánh Tây, Tân Trung, Cẩm Sơn với tổng kinh phí trên 126 triệu đồng. Thực hiện có hiệu quả một số mô hình như trồng xen bưởi da xanh, mãng cầu xiêm trong vườn dừa, nuôi ong ký sinh, mô hình khắc phục hiện tượng dừa treo trái, nuôi lươn sinh sản; dự án hỗ trợ giống dừa dứa, bưởi da xanh cho người nghèo; dự án hỗ trợ nông nghiệp các-bon thấp; dự án cải tạo vườn dừa kém hiệu quả.

Hiện nay, diện tích cây ăn trái đạt 1.590ha, trong đó diện tích trồng xen 1.490ha, trồng chuyên 100ha, diện tích đã thu hoạch 1.150ha, sản lượng ước đạt khoảng 10.000 - 12.000 tấn/năm. Dự kiến đến năm 2020, diện tích cây ăn trái đạt 1.700ha, trong đó có 200ha trồng chuyên, với các cây chủ lực là: bưởi da xanh, mãng cầu xiêm ở các xã Cẩm Sơn, An Thới, Thành Thới A, Tân Trung, Minh Đức, An Định. Khai thác triệt để các vùng đất giồng tại các xã An Thạnh, Đa Phước Hội, Tân Trung, An Thới, An Định để chuyển sang trồng cây ăn trái.

Trên lĩnh vực chăn nuôi, cơ cấu theo hướng tăng dần tỷ lệ heo trong đàn vật nuôi. Áp dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến và ứng dụng công nghệ cao từ khâu chọn giống, chuẩn bị chuồng trại, thức ăn, quy trình chăm sóc đến công tác vệ sinh an toàn dịch bệnh để nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Tổ chức chăn nuôi heo theo mô hình liên kết, gắn kết chặt chẽ chuỗi giá trị và đa dạng hóa các sản phẩm chăn nuôi để nâng cao giá trị gia tăng. Khuyến khích áp dụng công nghệ cao vào các mô hình sản xuất và bảo vệ môi trường, kiểm soát tốt dịch bệnh. Đồng thời, hỗ trợ và khuyến khích áp dụng chăn nuôi ứng dụng công nghệ sinh học, mô hình nuôi gà thả vườn tập trung tại các xã Tân Trung, Minh Đức, Định Thủy, An Thới, Tân Hội để vừa tạo mô hình sinh kế vừa tăng thu nhập cho hộ nông dân.

Thực hiện các chính sách ưu đãi và khuyến khích đầu tư phát triển kinh tế trang trại, ngày càng có nhiều hộ chăn nuôi với quy mô lớn và nhận thức được kinh tế trang trại là hướng đi đúng trong chăn nuôi hiện nay. Huyện còn khuyến khích, vận động nhân dân phát triển sản xuất đi đôi với bảo vệ môi trường, xây dựng hầm biogas. Tính đến nay, toàn huyện có 98 trang trại được cấp giấy chứng nhận.

Trong xu thế hội nhập kinh tế, nhu cầu liên kết hợp tác trong sản xuất nông nghiệp là rất cần thiết. Huyện đang chỉ đạo củng cố lại các chi hội, tổ hội nghề nghiệp, tổ hợp tác, hiệp hội kinh tế trang trại, phát triển các loại hình liên kết sản xuất và tiêu thụ sản phẩm nhằm giúp cho nông dân đứng vững được trước những tác động của kinh tế thị trường thời hội nhập. Hiện nay, toàn huyện hình thành được 50 tổ hợp tác sản xuất nông nghiệp.

Còn đó nhiều nỗi băn khoăn

Theo Thạc sĩ Nguyễn Thanh Hùng - Trưởng Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, việc thực hiện Đề án Tái cơ cấu ngành Nông nghiệp ở một số nơi còn chậm, do thiếu sự chỉ đạo tập trung, phân công trách nhiệm chưa rõ ràng, còn lúng túng trong biện pháp triển khai thực hiện. Ngoài ra, còn do ảnh hưởng từ một số yếu tố khách quan như giá cả các mặt hàng nông sản chủ lực trong các năm qua ở mức thấp, đã ảnh hưởng đến thu nhập và khả năng tái đầu tư sản xuất của nông dân.

Chuyển dịch cây trồng, vật nuôi tuy diễn ra tích cực và đúng hướng nhưng chưa bền vững. Các chương trình, dự án được triển khai nhiều nhưng kết quả thực hiện chưa cao. Nhiều diện tích vườn, mương chưa được khai thác triệt để và có hiệu quả. Sản xuất chủ yếu vẫn ở quy mô nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm còn thấp, giá thành còn cao, việc xây dựng thương hiệu nông sản chưa được quan tâm đúng mức trước yêu cầu hội nhập kinh tế. Công tác quản lý giống cây trồng, vật nuôi chưa thực hiện tốt theo pháp lệnh của Nhà nước. Công tác chuyển giao khoa học kỹ thuật có tập trung thực hiện nhưng chưa theo kịp yêu cầu phát triển sản xuất nông nghiệp theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Việc huy động các nguồn lực khá đồng bộ nhưng chưa đáp ứng được nhu cầu chuyển đổi cây trồng vật nuôi, phát triển sản xuất hàng hóa.

Nguồn kinh phí đầu tư cho phát triển của Nhà nước có hạn trong khi yêu cầu thì rất lớn và đa dạng. Đội ngũ cán bộ kỹ thuật ít, trình độ và năng lực còn những mặt hạn chế nhất định, chưa đáp ứng yêu cầu phát triển nông nghiệp trong thời đại mới. Việc cụ thể hóa đề án và tập trung chỉ đạo thực hiện ở một số địa phương chưa cao, nhất là việc thực hiện các dự án phát triển kinh tế còn chậm. Giá cả thị trường biến động, nhiều loại vật tư tăng giá rất cao nên ảnh hưởng đến việc đầu tư phát triển sản xuất. Trong nhân dân vẫn còn một bộ phận có tư tưởng sản xuất nhỏ, tâm lý e ngại, lo lắng sản phẩm làm ra tiêu thụ khó khăn nên chưa mạnh dạn đầu tư phát triển sản xuất. Đó là những khó khăn trong quá trình thực hiện đề án, cần tập trung tháo gỡ trong thời gian tới. Dù tạo chuyển biến bước đầu nhưng vẫn còn những trăn trở, nếu không có sự quyết liệt của cả hệ thống chính trị thì sẽ khó đạt được mục tiêu đề án đề ra.

“Việc sắp xếp lại cơ cấu ngành Nông nghiệp của huyện Mỏ Cày Nam tập trung phát triển chủ yếu cây dừa và con heo. Hiện nay, chúng tôi xác định được chuỗi liên kết giữa chúng và đang từng bước triển khai. Đó là sản xuất theo hướng tiêu chuẩn dừa hữu cơ sinh học và nuôi heo ở trang trại tập trung. 2 mô hình này có mối quan hệ hỗ tương và giải quyết tốt những vấn đề của nhau. Nhu cầu phân hữu cơ trong vườn dừa hữu cơ sẽ giải quyết tốt vấn đề ô nhiễm môi trường trong chăn nuôi; nếu nạn ô nhiễm môi trường được khắc phục, đàn heo của Mỏ Cày Nam sẽ còn phát triển nhanh hơn. Sản phẩm của 2 mặt hàng chủ lực này sẽ có đầu ra ổn định và mang tính bền vững, phù hợp với thị trường hội nhập hiện nay” - Thạc sĩ Nguyễn Thanh Hùng phân tích.

Bài, ảnh: Mã Phương

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN