Tiểu đoàn 263 được thành lập vào tháng 2 năm 1963 (thuộc tiểu đoàn chủ lực của Quân khu) do đồng chí Lê Văn Phải làm Tiểu đoàn trưởng, đồng chí Lê Minh Đào làm Chính trị viên. Sau một thời gian huấn luyện, Tiểu đoàn đang chuẩn bị kế hoạch cùng lực lượng vũ trang ở địa phương vào chiến dịch đánh phá vành đai ấp chiến lược nhằm giúp dân trở về làng cũ, mở rộng vùng giải phóng thì được tin địch chuẩn bị càn quét lớn ở hai xã Thạnh Phong, Giao Thạnh để lùng kiếm kho tàng bến bãi của cách mạng.
Địch huy động một chiến đoàn Thủy quân lục chiến, một tiểu đoàn Sư đoàn 7 bộ binh, 26 xe M113, 12 khẩu pháo 105 và 155 ly đến bao vây hai xã này. Tiểu đoàn 263 đã kết hợp với đơn vị bảo vệ bến đầu cầu, lực lượng trường quân sự tỉnh, du kích cơ quan, địa phương chặn địch ở nhiều phía. Đặc biệt, tại Hồ Cỏ, Tiểu đoàn đã phục kích chặn đánh nhiều mũi tiến quân của địch và sau 21 ngày liên tục chủ động tiến công địch, cùng với các lực lượng địa phương, dân quân du kích, Tiểu đoàn 263 đã đánh bại cuộc hành quân trên quy mô lớn của địch, diệt và làm bị thương trên 1.200 tên, trong đó có Đại tá Hoàng Gia Anh, bắn rơi, bắn cháy 47 máy bay (phần lớn là trực thăng), thu trên 200 súng các loại.
Có thể nói đây là trận chống càn quy mô của địch ở Thạnh Phú, giành thắng lợi lớn, bảo tồn được lực lượng và là sự thử thách đầu tiên của Tiểu đoàn 263. Chính hãng thông tấn của AFP Pháp sau đó (ngày 18-1-1964) cũng đã bình luận: Trận đánh lớn trong lịch sử chiến tranh trực thăng vận của Mỹ ở một huyện hẻo lánh đã trở thành ngày tồi tệ nhất của chiến thuật này.
Là một tiểu đoàn thành lập sau nhưng sinh ra và lớn lên cũng như trưởng thành trong sự đùm bọc của nhân dân địa phương (có Tiểu đoàn phó Khấu Trung Gương được Nhà nước phong tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân) nên đây cũng chính là hào quang, niềm tin và lòng tự hào của cán bộ, chiến sĩ Tiểu đoàn. Cũng từ đó, Tiểu đoàn 263 đã giữ vững an ninh chính trị của mảnh đất Thạnh Phú và vận động góp phần xây dựng chính quyền địa phương.
Căn cứ vào đặc điểm, thế mạnh của Tiểu đoàn, đến tháng Giêng năm 1979, Quân khu đã chọn Tiểu đoàn 263 đi làm nhiệm vụ quốc tế giúp bạn theo yêu cầu của Campuchia, để ổn định an ninh chính trị, xây dựng chính quyền của một huyện thuộc tỉnh Kandal.
Theo lời Đại tá Nguyễn Văn Diễm, nguyên Chính trị viên Tiểu đoàn lúc bấy giờ, nhiệm vụ của đơn vị bắt đầu từ yêu cầu bảo vệ sườn núi Thâm Đinh ở ngã ba Tân Lập, sau đó tạt lại giữ lưng đánh địch ở núi Som. Có gần 20 trận truy quét đụng độ với quân Pôn-Pốt gây tổn thất cho địch, thu 30 súng các loại, có khẩu pháo phòng không 37 ly và 2 xe M113. Tiếp đó lại tiến hành truy quét địch ở ngã ba Rề-Minh (tỉnh Tà Keo). Sau đó, tức vào khoảng cuối tháng 2 năm 1979, địch tập trung quân từ 3 sư đoàn, khoảng 300 tên (theo thú nhận của hàng binh), có xe tăng, pháo binh đánh thẳng vào Đại đội 1 chốt trên trục lộ về Pnôm-Pênh, gần ngã ba Súp. Tiểu đoàn ta phản công mạnh mẽ, đến 4 giờ chiều thì địch rút chạy với hàng trăm thương vong. Bên ta có 7 anh em hy sinh, trong đó có Đại đội phó Nguyễn Văn Sứ (sau được truy tặng danh hiệu Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân). Đến tháng 4-1979, Tiểu đoàn về đóng quân tại xã Sờ-Vay Chờ-Rum thuộc huyện Sackandal.
Đại tá Nguyễn Văn Diễm kể: Tiểu đoàn về đến nơi chỉ thấy toàn là vườn không nhà trống! Huyện Sackandal là huyện lớn, có chiều dài 20km, ngang 11km, gồm 18 xã (9 xã nằm cặp sông Mêkông, 9 xã bưng biền giáp với huyện Biaren (tỉnh Prayven), vậy mà không có bóng dáng người dân đi lại. Sau đó mới biết được là dân đã chạy vào rừng hoặc đi theo hướng biên giới Thái Lan, coi như huyện không có dân. Vậy Tiểu đoàn phải làm gì để xúc tiến nhiệm vụ được giao? Ban Chỉ huy Tiểu đoàn phải họp khẩn cấp, lên kế hoạch làm việc tiếp tục truy quét địch, bố trí chốt chặn các vị trí quan trọng trong huyện, những điểm đầu mối tiếp giáp với tỉnh Prayven, Công-pông Chàm, đưa trinh sát nắm địch từ xa để giữ ổn định an ninh địa bàn. Sau đó tìm mọi cách kêu gọi, đưa rước dân trở về; phải chăm lo việc cứu đói, lo định cư (ai ở đâu về đó tùy ý thích).
Cũng theo lời Đại tá Nguyễn Văn Diễm, điều khó khăn và không kém phần quan trọng là tìm đâu ra Việt kiều, người dân địa phương tốt để làm phiên dịch, cơ sở ban đầu, vì trên không có đưa người xuống. Dù vậy, theo yêu cầu của trên, trong tháng 4 năm 1979, Tiểu đoàn đồng loạt kết hợp với các lực lượng tại chỗ vừa tiếp tục truy quét địch ra khỏi địa bàn, vừa tổ chức hồi hương cho dân. Qua đó tìm người tốt, có uy tín để hình thành khung cán bộ trong xây dựng chính quyền ba cấp giúp dân. Cùng lúc một bộ phận khác của Tiểu đoàn từ xã Xoi-Chum hành quân đến xã Prết-Ramắc (thị trấn cũ và là trung tâm căn cứ của địch) để xác lập ổn định an ninh và xây dựng điểm cho huyện.
Qua khai thác hàng binh, ta nắm: số địch còn lại đã trà trộn trong dân để công khai trở về địa phương. Và qua tìm hiểu sàng lọc, ta tiếp nhận nhiều người và đề nghị cộng tác như ông Thạch, gốc là Khmer miền dưới và ông Mai Xuân, Việt kiều làm phiên dịch, tiếp đến là các ông Chum Rương, Men Thom, Phờ Rương, Hát Cum Xiêng, Bòn Thenh, Pưche-Rum và bà Nát-Ty để xây dựng dần các chức danh chủ chốt của huyện.
Lúc này lực lượng quân sự của bạn cũng bắt đầu hình thành một trung đội (30 tay súng), công an được 5, các đoàn thể, ngành chưa đủ ở huyện. Riêng xã, chỉ có một chủ tịch (là Soai-rô ních).
Việc xác lập bộ máy chính quyền tạm thời này đã thực sự mang lại hiệu quả như một lời hiệu triệu quần chúng, nên số người dân trở về xóm ấp cũ ngày càng đông. Nói chung bước đầu Tiểu đoàn chưa biết gì, nhưng nhờ thực hiện chủ trương cùng ăn, cùng ở, cùng làm nên dần dần bộ đội ta cũng bắt đầu am hiểu và lấy được lòng dân. Cụ thể như trong việc cứu đói những ngày dân mới về định cư, Tiểu đoàn đã trích phần lương thực của bộ đội, cả đến nhu yếu phẩm cộng với sự chi viện của trên để lo cho dân nên bước đầu đã nhanh chóng ổn định tư tưởng, tình cảm của người dân trong an cư.
Đặc biệt, qua các già làng, bộ đội giúp đỡ để chọn người tốt tham gia tổ chức chính quyền xã và từ bộ máy đó tập hợp dân học tập, vận động họ kêu gọi con em theo Pôn-Pốt quay về tự thú để được chính quyền xã khoan hồng, giúp đỡ, tạo dựng cuộc sống mới…
Đối với Thiếu tá Phạm Văn Mên, nguyên Tổ trưởng Tổ chuyên gia huyện, Tiểu đoàn trưởng Tiểu đoàn 263 thì cuộc đánh địch, vận động nhân dân xây dựng chính quyền ở Sackandal đã để lại nhiều kỷ niệm, dấu ấn khó quên.
Ngay như sau khi có lời kêu gọi của khung chính quyền địa phương, làn sóng người dân từng đoàn từ 50 đến 70 người đùm túm nhau quay về quê cũ đã làm nức lòng mọi người.
Đại tá Nguyễn Văn Diễm nói xen vào: Đây là một thắng lợi lớn, nhưng trong làn sóng hồi hương của dân làng có lẫn lộn đường dây địch ngầm bủa về. Lúc này bộ đội ta cũng còn tiếp tục truy quét địch bên ngoài, cả địch trà trộn trong dân, để giúp bạn nhanh chóng tổ chức xây dựng chính quyền. Nhờ vậy đến cuối năm 1980, chính quyền huyện Sackandal được xây dựng đến xã, ấp. Cán bộ huyện ở 40 xã hơn 200 người (bình quân mỗi xã 8 người). Ban Chỉ huy Quân sự huyện có 2 trung đội (40 tay súng) biết kết hợp với bộ đội ta đánh địch, truy quét, biết làm công tác dân vận, giúp dân tổ chức sản xuất, xây dựng kết cấu hạ tầng. Cùng thời gian này, ta đưa tổ phái viên đến giúp bạn tận xã làm công tác chính quyền trong điều hành, xây dựng kế hoạch toàn diện. Lúc này, tỉnh có tập trung mở lớp phiên dịch (học nói và viết) cho Tiểu đoàn được 3 đồng chí, sau đó tổ chức học hàng năm được 21 người. Đây là việc cần cho bộ đội tiếp xúc dân, nắm tình hình để tổ chức truy quét đánh địch trên địa bàn thì không có gì là lạ. Nhưng từ năm 1981 trở về sau, việc tổ chức đánh địch ngầm trong chính quyền hai mặt rất gay go. Biết vậy, ta bí mật tổ chức cơ sở trong lực lượng bạn, trong dân theo dõi, kết hợp với trinh sát để nắm tình hình, sau đó phát hiện ở 12 xã có địch ngầm. Lập tức ta phân loại đối tượng số nào cần bắt, số nào đưa ra giáo dục thuyết phục (khoảng 100 tên có 2 tên đầu sỏ). Ban Chỉ huy Tiểu đoàn đề nghị trên xin phá án và được trên chấp thuận, hỗ trợ. Cả Tiểu đoàn vào chiến dịch, bắt ngay đầu sỏ, số còn lại gom về tổ chức họp dân đưa ra bình xét, phát động tự thú lỗi lầm, hứa hẹn sửa chữa, gia đình đứng ra bảo lãnh, giao về cho tổ đoàn kết sản xuất quản lý. Thấy được chính sách khoan hồng của cách mạng, quần chúng kêu gọi con em trở về trên 30 người.
(Còn tiếp)