 |
Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe sau khi kết thúc họp báo chung. (Ảnh: Trí Dũng/TTXVN) |
Theo đặc phái viên TTXVN, nhận lời mời của Thủ tướng Nội các Nhật Bản Shinzo Abe, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Nhật Bản từ ngày 15 đến 18-9.
Nhân chuyến
thăm, hai bên ra Tuyên bố về Tầm nhìn chung quan hệ Việt Nam - Nhật Bản. TTXVN
trân trọng giới thiệu toàn văn Tuyên bố chung:
“Nhận lời
mời của Thủ tướng Nội các Nhật Bản Shinzo Abe, Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung
ương Đảng Cộng sản Việt Nam Nguyễn Phú Trọng thăm chính thức Nhật Bản từ ngày
15-18/9. Trong chuyến thăm, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng hội kiến với Nhà vua
Nhật Bản, hội đàm với Thủ tướng Nội các Shinzo Abe, gặp gỡ lãnh đạo các giới
chính trị, kinh tế, xã hội Nhật Bản...
Trên cơ sở
những thành tựu đã đạt được và với tầm nhìn chiến lược chung về tiềm năng hợp
tác và tương lai quan hệ Việt Nam-Nhật Bản, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng và Thủ
tướng Nội các Shinzo Abe đã thông qua Tuyên bố về tầm nhìn chung quan hệ Việt
Nam-Nhật Bản nhằm thúc đẩy toàn diện và làm sâu sắc hơn quan hệ Đối tác chiến
lược sâu rộng Việt Nam-Nhật Bản vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á.
I. Sự
phát triển của quan hệ Việt Nam-Nhật Bản
1. Hai
bên đánh giá cao sự phát triển mạnh mẽ, toàn diện và thực chất của quan hệ Việt
Nam-Nhật Bản trong thời gian qua, nhất là sau khi quan hệ hai nước được nâng cấp
thành Đối tác chiến lược vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á năm 2009 và Đối tác
chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á năm 2014.
Sự tin cậy
chính trị được củng cố và tăng cường mạnh mẽ thông qua hoạt động giao lưu và tiếp
xúc cấp cao thường xuyên cũng như các cơ chế đối thoại giữa các ban, bộ, ngành
Việt Nam và Nhật Bản. Nhật Bản giữ vững vị trí là đối tác kinh tế quan trọng
hàng đầu của Việt Nam.
Hợp tác kinh
tế song phương ngày càng đi vào chiều sâu với việc hai bên đã hoàn thành xây dựng
5 Kế hoạch hành động của Chiến lược công nghiệp hóa Việt Nam trong khuôn khổ hợp
tác Việt Nam-Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030; hoàn thành Giai đoạn V
Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản về cải thiện môi trường đầu tư nhằm tằng cường
năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
Hợp tác
giữa hai nước trong các lĩnh vực như quốc phòng, an ninh, nông nghiệp, khoa học-công
nghệ, giáo dục-đào tạo, văn hóa, thể thao, du lịch, môi trường, giao lưu cấp địa
phương, giao lưu nhân dân... đã có bước phát triển thực chất và ngày càng được
tăng cường, mở rộng.
2. Việt
Nam đánh giá cao sự phát triển của nền kinh tế Nhật Bản; tin tưởng rằng sự phục
hồi kinh tế Nhật Bản có ảnh hưởng tích cực đối với nền kinh tế khu vực và thế
giới.
3. Nhật Bản
đánh giá cao những thành tựu mà Việt Nam đã giành được dưới chính sách Đổi mới
và tin tưởng rằng nhân dân Việt Nam sẽ hoàn thành sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, thực hiện thắng lợi mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh.
4. Hai
bên cho rằng những thành tựu trong quan hệ hợp tác Việt Nam-Nhật Bản trong những
năm qua là kết quả của sự "tin cậy, hiểu biết lẫn nhau, phát huy lợi ích
tương đồng, nâng cao hiệu quả hợp tác, nỗ lực hướng tới tương lai" cùng với
sự ủng hộ rộng rãi của nhân dân hai nước.
II. Định
hướng phát triển quan hệ Việt Nam-Nhật Bản
5. Hai
bên khẳng định Việt Nam và Nhật Bản là đối tác quan trọng của nhau, có nhiều lợi
ích cơ bản tương đồng, sự phát triển của nước này sẽ tạo điều kiện thuận lợi
cho sự phát triển của nước kia. Việt Nam khẳng định Nhật Bản tiếp tục là đối
tác quan trọng hàng đầu và lâu dài , Nhật Bản khẳng định coi trọng vị trí của
Việt Nam trong chính sách đối ngoại của Nhật Bản ở khu vực châu Á-Thái Bình
Dương.
6. Trên
tinh thần Đối tác chiến lược sâu rộng vì hòa bình và phồn vinh ở châu Á, hai
bên khẳng định quyết tâm phát triển mối quan hệ Việt Nam-Nhật Bản toàn diện và
sâu sắc trên mọi lĩnh vực, vì lợi ích của nhân dân hai nước, đóng góp vào hòa
bình, ổn định, hợp tác và thịnh vượng ở khu vực châu Á - Thái Bình Dương và
trên thế giới.
Về quan hệ
chính trị và quốc phòng, an ninh
7. Hai
nhà lãnh đạo chia sẻ mong muốn duy trì thường xuyên các chuyến thăm và tiếp xúc
giữa lãnh đạo cấp cao hai nước, thúc đẩy giao lưu giữa Quốc hội, chính đảng hai
nước nhằm củng cố và tăng cường sự tin cậy về chính trị giữa hai nước. Nhân dịp
này, Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đã trân trọng mời Nhà vua Nhật Bản, Hoàng hậu
cùng các thành viên Hoàng gia Nhật Bản, Thủ tướng Shinzo Abe sang thăm Việt Nam
vào thời gian thích hợp. Phía Nhật Bản chân thành cảm ơn lời mời của phía Việt
Nam.
8. Hai
bên nhất trí tiếp tục phối hợp chặt chẽ nhằm tăng cường và làm sâu sắc hơn các
cơ chế hợp tác đối thoại hiện có giữa hai nước như Ủy ban hợp tác Việt-Nhật, Đối
thoại đối tác chiến lược Việt-Nhật...; tăng cường hợp tác giữa các địa phương
hai nước.
9. Hai
nhà lãnh đạo chia sẻ mong muốn tăng cường hợp tác trong lĩnh vực quốc phòng, an
ninh, thông qua thúc đẩy các chuyến thăm và giao lưu các cấp; nâng cao hiệu quả
các cơ chế đối thoại và tích cực phối hợp triển khai các thỏa thuận song phương
đã ký giữa hai nước trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đẩy mạnh hợp tác trong
lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực.
10. Hai
bên nhất trí tăng cường hợp tác trong lĩnh vực an ninh và an toàn trên biển như
tìm kiếm cứu nạn và đối phó với các vấn đề an ninh phi truyền thống như an ninh
mạng và phòng, chống tội phạm mạng, chống khủng bố, tội phạm xuyên quốc gia, cướp
biển… Hai bên đã ký kết Bản ghi nhớ hợp tác giữa hai cơ quan cảnh sát biển.
11. Nhật
Bản khẳng định sẽ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực của lực lượng thực
thi pháp luật trên biển, khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh, tham gia hoạt
động gìn giữ hòa bình của Liên hợp quốc. Lãnh đạo Bộ quốc phòng hai nước đã ký
Bản ghi nhớ về hợp tác trong lĩnh vực gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc.
Về kết nối
hai nền kinh tế
12. Xuất
phát từ nhu cầu và lợi ích của nhau, hai bên chia sẻ mong muốn kết nối hai nền
kinh tế phát triển bền vững lâu dài với trọng tâm là kết nối chiến lược phát
triển kinh tế, năng lực sản xuất và nguồn nhân lực trên nguyên tắc bổ sung,
tương trợ lẫn nhau và cùng có lợi.
13. Về kết
nối chiến lược phát triển kinh tế, hai bên chia sẻ mong muốn tăng cường hợp tác
trong quá trình quy hoạch chiến lược phát triển kinh tế bền vững. Nhật Bản khẳng
định sẽ hỗ trợ Việt Nam nâng cao năng lực cạnh tranh, chuyển đổi mô hình tăng
trưởng, triển khai Chiến lược công nghiệp hóa trong khuôn khổ hợp tác Việt
Nam-Nhật Bản hướng đến năm 2020, tầm nhìn 2030 và sớm triển khai Giai đoạn VI
Sáng kiến chung Việt Nam-Nhật Bản về cải thiện môi trường đầu tư của Việt Nam
nhằm tăng cường năng lực cạnh tranh của Việt Nam.
14. Hai
bên đánh giá cao việc thành lập Ủy ban hỗn hợp Công nghiệp, Thương mại và Năng
lượng nhằm đẩy mạnh và tăng cường hợp tác chặt chẽ, toàn diện và hiệu quả hơn nữa
giữa khu vực công và tư trong lĩnh vực công nghiệp, thương mại và năng lượng của
hai nước.
15. Hai
bên khẳng định rằng, trên cơ sở kết quả tăng cường tham vấn kiểm dịch thực vật,
Việt Nam sẽ sớm mở cửa thị trường cho táo tươi của Nhật Bản theo yêu cầu của Nhật
Bản và Nhật Bản sẽ sớm mở cửa thị trường cho xoài tươi của Việt Nam theo yêu cầu
của Việt Nam.
16. Về kết
nối năng lực sản xuất, hai bên nhất trí:
- Tăng cường
hợp tác phát triển kết hợp chuyển giao công nghệ trong các lĩnh vực công nghệ
cao;
- Thúc đẩy
hợp tác trong lĩnh vực năng lượng, điện tử, thông tin và truyền thông, dịch vụ
bưu chính;
- Thúc đẩy
dòng vốn đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp Nhật Bản, trong đó có doanh
nghiệp vừa và nhỏ;
- Đẩy mạnh
hợp tác giữa các doanh nghiệp hai nước trong lĩnh vực nông nghiệp, lĩnh vực ưu
tiên của Việt Nam và phối hợp chặt chẽ phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ của
Việt Nam, thúc đẩy phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ nhằm tạo điều kiện thuận
lợi cho các doanh nghiệp Nhật Bản hoạt động tại Việt Nam tăng tỷ lệ nội địa hóa;
- Đa dạng
hóa các hình thức đầu tư, trong đó khuyến khích hợp tác đối tác công tư (PPP);
- Thúc đẩy
phát triển ngành cơ khí chế tạo, xây dựng và phát triển các khu công nghiệp lớn
của Việt Nam;
- Thúc đẩy
môi trường kinh doanh sáng tạo thông qua hợp tác về sở hữu trí tuệ;
- Thúc đẩy
hợp tác toàn diện trong lĩnh vực nông, lâm, ngư nghiệp theo tinh thần “Tầm nhìn
trung và dài hạn trong hợp tác nông nghiệp Việt Nam-Nhật Bản”;
- Đẩy mạnh
hợp tác trực tiếp giữa các địa phương hai nước.
17. Về kết
nối nguồn nhân lực, hai bên nhất trí hợp tác chặt chẽ để triển khai hiệu quả
Chương trình chiến lược về hợp tác giáo dục 2014. Trên cơ sở kinh nghiệm về
phát triển toàn diện nguồn nhân lực trong các ngành nghề, Nhật Bản cam kết hỗ
trợ nâng cấp một số trường đại học và trường dạy nghề chất lượng cao đạt tiêu
chuẩn quốc tế, tích cực hỗ trợ Việt Nam xây dựng trường Đại học Việt-Nhật. Nhật
Bản khẳng định hỗ trợ Việt Nam phát triển các tiêu chuẩn nghề nghiệp và hệ thống
kiểm tra kỹ năng toàn quốc.
Hai bên
nhất trí hợp tác về việc tiếp nhận điều dưỡng viên, hộ lý, thực tập sinh kỹ thuật
của Việt Nam. Hai bên chia sẻ ý định hợp tác để cải thiện Chương trình Đào tạo
Thực tập Kỹ thuật nhằm thúc đẩy hơn nữa phát triển nguồn nhân lực theo Chương
trình này.
18. Hai
bên nhất trí hợp tác chặt chẽ hơn nữa để thực hiện mục tiêu tăng gấp đôi kim ngạch
thương mại hai chiều và dòng đầu tư vào năm 2020 theo tinh thần của Tuyên bố
chung năm 2014 thông qua nhiều biện pháp bao gồm việc triển khai hiệu quả Hiệp
định Đối tác Kinh tế Việt Nam-Nhật Bản.
19. Việt
Nam đánh giá cao và bày tỏ cảm ơn Nhật Bản đã hỗ trợ tích cực và hiệu quả cho
phát triển kinh tế-xã hội của Việt Nam thông qua cung cấp Viện trợ phát triển
chính thức (ODA) trong hơn 20 năm qua.
Nhật Bản
khẳng định cam kết tăng cường hợp tác với Việt Nam, bao gồm thông qua việc sử dụng
ODA cho Việt Nam trong các lĩnh vực phát triển cơ sở hạ tầng và năng lượng, xóa
đói giảm nghèo, biến đổi khí hậu và phát triển nguồn nhân lực. Việt Nam hoan
nghênh sáng kiến Đối tác Cơ sở hạ tầng chất lượng cao của Nhật Bản và hai bên
quyết tâm hợp tác chặt chẽ nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật
Bản dành cho Việt Nam và phát triển cơ sở hạ tầng bền vững, có chất lượng và
tính tiếp cận cao ở Việt Nam.
20. Hai
bên chia sẻ quan điểm về việc thúc đẩy xây dựng nhà máy nhiệt điện than hiệu suất
cao sẽ đóng góp vào an ninh năng lượng và giảm hiệu ứng nhà kính (GHG), khẳng định
tầm quan trọng của việc bày tỏ cần hỗ trợ tài chính công của các nước thành
viên Tổ chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD) đối với nhà máy nhiệt điện
than hiệu suất cao trên diễn đàn quốc tế.
Về hợp
tác trong các lĩnh vực khác
21. Hai
bên nhất trí thúc đẩy các biện pháp tạo thuận lợi về nhập cảnh cho công dân hai
nước. Hai bên chia sẻ quan điểm cần đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực tư pháp và
xây dựng hệ thống pháp luật, bao gồm tương trợ tư pháp về hình sự, dẫn độ tội
phạm, chuyển giao người bị kết án phạt tù.
22. Hai
bên quyết định tăng cường hợp tác trong các lĩnh vực khoa học-công nghệ, văn
hóa, thể thao, du lịch, an sinh xã hội, giao lưu nhân dân. Liên quan đến vấn đề
này, Việt Nam đánh giá cao sự hợp tác của Nhật Bản trong dự án JENESYS 2015 (Mạng
lưới trao đổi sinh viên và thanh niên Nhật Bản - Đông Á) được triển khai theo
sáng kiến của Thủ tướng Shinzo Abe.
Hai bên
cũng hoan nghênh sự phát triển của "Dự án WA" nhằm thúc đẩy giao lưu
văn hóa nghệ thuật giữa hai bên, hỗ trợ học tiếng Nhật. Việt Nam đánh giá cao
sáng kiến "Thể thao vì Ngày mai" của Chính phủ Nhật Bản nhằm tăng cường
hợp tác và giao lưu quốc tế thông qua thể thao. Hai bên nhận thức tầm quan trọng
và quyết định đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực môi trường, biến đổi khí hậu, giảm
thiểu nguy cơ thiên tai.
III. Tăng
cường hợp tác trong các vấn đề khu vực và quốc tế
23. Nhật
Bản hoan nghênh chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình, hợp tác và phát
triển, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế
của Việt Nam; đánh giá cao vai trò của Việt Nam trong việc duy trì hòa bình, ổn
định, hợp tác và phát triển ở khu vực và thế giới.
Việt Nam
ghi nhận và đánh giá cao quyết tâm của Nhật Bản rút ra những bài học lịch sử
sâu sắc, cam kết đi theo con đường quốc gia hòa bình. Việt Nam hoan nghênh đóng
góp tích cực của Nhật Bản đối với hòa bình và phát triển thông qua những nỗ lực
bao gồm luật pháp, chính sách, sáng kiến mang tính xây dựng vì hòa bình, an
ninh, hợp tác và phát triển ở khu vực và trên thế giới.
24. Hai
bên tái khẳng định hợp tác chặt chẽ hơn nữa trong các tổ chức, diễn đàn khu vực
và quốc tế mà hai nước đều là thành viên như Liên hợp quốc, Tổ chức Thương mại
Thế giới (WTO), Diễn đàn hợp tác kinh tế châu Á-Thái Bình Dương (APEC), Diễn
đàn Á-Âu (ASEM), Diễn đàn khu vực ASEAN (ARF), ASEAN + 3, ASEAN-Nhật Bản, Hội
nghị cấp cao Đông Á (EAS), ADMM+...
Hai bên
bày tỏ ủng hộ vai trò trung tâm của ASEAN trong cấu trúc khu vực, nhất trí về tầm
quan trọng cần duy trì một ASEAN tự chủ, đoàn kết và vững mạnh; quyết tâm tăng
cường hợp tác trong vấn đề liên kết khu vực và thu hẹp khoảng cách nội khối, nhất
là sau khi Cộng đồng ASEAN được thành lập vào năm 2015.
25. Việt
Nam đánh giá cao tầm quan trọng của Cơ chế hợp tác Nhật Bản-Mekong, bao gồm
"Kế hoạch hành động Mekong-Nhật Bản" phù hợp với bốn trụ cột của
"Chiến lược Tokyo mới 2015" được thông qua tại Hội nghị Thượng đỉnh
Mekong-Nhật Bản lần thứ 7 và vai trò tích cực của Nhật Bản trong cơ chế hợp tác
trên, nhất là trong việc thúc đẩy quản lý và phát triển bền vững nguồn nước
sông Mekong và phát triển cơ sở hạ tầng Hành lang kinh tế Đông - Tây. Hai bên
cũng đánh giá cao việc xây dựng "Tầm nhìn Phát triển Công nghiệp
Mekong" tại Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế Mekong-Nhật Bản lần thứ 7 và khẳng
định tiếp tục hợp tác để hiện thực hóa Tầm nhìn này. Nhật Bản khẳng định phối hợp
chặt chẽ và hỗ trợ Việt Nam tổ chức thành công Hội nghị các Nhà lãnh đạo kinh tế
APEC 2017.
26. Hai
bên bày tỏ quyết tâm phối hợp chặt chẽ với nhau và với các thành viên tham gia
khác để sớm kết thúc đàm phán Hiệp định Liên kết kinh tế khu vực (RCEP) và Hiệp
định Đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP).
27. Hai
bên bày tỏ quan ngại sâu sắc về những diễn biến phức tạp gần đây đang diễn ra ở
Biển Đông, bao gồm việc bồi đắp đảo và xây dựng công sự quy mô lớn, làm gia
tăng căng thẳng, xói mòn lòng tin và sự tin cậy, đe dọa hòa bình, ổn định tại
khu vực và trên thế giới. Hai bên nhấn mạnh các quốc gia ven biển cần tuân thủ
luật pháp quốc tế, bao gồm luật pháp về biển, kiềm chế những hành động đơn
phương làm thay đổi nguyên trạng.
Hai bên
nhấn mạnh tầm quan trọng của việc đảm bảo hòa bình, an ninh, an toàn và tự do
hàng hải và hàng không; thúc giục các bên liên quan không có hành động đơn
phương làm phức tạp và mở rộng tranh chấp trên Biển Đông, giải quyết mọi tranh
chấp bằng các biện pháp hòa bình trên cơ sở tuân thủ luật pháp quốc tế, nhất là
Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS), nghiêm túc thực hiện
Tuyên bố về ứng xử của các bên ở Biển Đông (DOC) và sớm tiến tới thiết lập Bộ
Quy tắc ứng xử ở Biển Đông (COC).
28. Hai
bên nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình và ổn định trên Bán đảo
Triều Tiên, nhấn mạnh sự cần thiết phải kiềm chế các hành động gây căng thẳng,
tuân thủ đầy đủ các nghĩa vụ theo các Nghị quyết có liên quan của Hội đồng bảo
an Liên hợp quốc và các cam kết trong Tuyên bố chung của Vòng đàm phán 6 bên
năm 2005, tiến hành các bước đi cụ thể hướng tới phi hạt nhân hóa bán đảo Triều
Tiên. Hai bên nhất trí tăng cường hợp tác để giải quyết vấn đề bắt cóc - mối
quan tâm nhân đạo của cộng đồng quốc tế.
29. Hai
bên nhấn mạnh Liên hợp quốc, đặc biệt là Hội đồng bảo an cần tăng cường tính hiệu
quả, sự minh bạch, dân chủ và tính đại diện, phản ánh thực tế của cộng đồng quốc
tế trong thế kỷ 21. Hai bên cho rằng dịp kỷ niệm 70 năm thành lập Liên hợp quốc
là thời điểm thuận lợi để thúc đẩy cải tổ Liên hợp quốc, trong đó có Hội đồng bảo
an; nhất trí về tầm quan trọng của việc hợp tác chặt chẽ trong vấn đề này.
30. Việt
Nam ủng hộ đề xuất của Nhật Bản về việc chọn ngày 5/11 là "Ngày sóng thần
thế giới" và hai bên nhất trí hợp tác nhằm nâng cao hiểu biết về sóng thần
và nhận thức tầm quan trọng của những biện pháp ngăn ngừa sóng thần.
31. Hai
bên khẳng định tầm quan trọng của việc sử dụng bền vững nguồn tài nguyên cá biển,
bao gồm động vật biển có vú, dựa trên những chứng cứ khoa học. Việt Nam bày tỏ
sẽ tích cực nghiên cứu việc tham gia và xem xét trở thành thành viên của Ủy ban
đánh bắt cá voi quốc tế và Nhật Bản hoan nghênh điều này. Nhật Bản khẳng định
xem xét ủng hộ Việt Nam gia nhập và là thành viên chính thức của Ủy ban Nghề cá
Trung và Tây Thái Bình Dương (WCPFC).
Trong thời
gian chuyến thăm, hai bên đã ký kết các văn bản hợp tác giữa các bộ, ngành hữu
quan và doanh nghiệp hai nước./.