Về Hòa Lợi, gặp “cha đẻ” nghề lu

09/06/2009 - 08:48
Phơi lu bên kênh Cái Cá (người trong ảnh là ông Hai Đây). Ảnh: C.Trúc

Anh Võ Văn Cưng – Chủ tịch UBND xã Hòa Lợi khẳng định ấp làm lu Quý Hòa có điện trước nhất. Kinh phí cả hệ thống lưới điện vài tỉ đồng hoàn toàn do dân đóng góp. Năm 2002-2003, bà con ở đây cũng tiên phong đóng góp xây dựng tuyến lộ dài 1,5 km. Đời sống khấm khá, sung túc nên các hoạt động phong trào của xã đều được bà con tham gia tích cực. Như gia đình ông Nguyễn Văn Diệp góp 12 triệu đồng và vận động thêm để làm tuyến lộ xuyên suốt làng nghề. Hiện làng có 75 hộ làm lu nhưng đã có đến 60 hộ có nhà tường.

Người ta ví người ở làng lu xã Hòa Lợi, huyện Thạnh Phú gắn bó với nghề làm lu qua nhiều đời như hơi thở vậy! Những chiếc lu đầu tiên ra đời đã được con người vùng nước mặn nơi đây trân trọng và yêu quý như chính những giọt nước ngọt mát lành của thiên nhiên!

Chúng tôi tìm đến “cha đẻ” của làng nghề làm lu truyền thống. Đó là ông Đỗ Văn Đây. Hầu hết người làng lu và cả xã Hòa Lợi đều muốn kể thật nhiều về ông Hai Đây với niềm biết ơn và ngưỡng mộ. Ở tuổi ngoài bảy mươi, dáng người cao, rắn rỏi, khỏe, khi trò chuyện, đôi mắt ông biểu hiện rất sinh động làm cho người đối diện thấy được sự tâm huyết của ông đối với công việc. Tôi đoán, khi còn trẻ ông là một trong những chàng trai nhiệt tình, xốc vác và giỏi giang nhất làng.

Ngược dòng thời gian, ông Hai lần giở từng trang quá khứ: Hồi đó, ở đây không có lu chứa nước uống. Bà con ở ấp Quý Hòa phải băng qua cánh đồng khô hơn cây số để lấy nước ở tận giếng Cây Me, ấp Quý An. Chuyện cái lu đến với qua (tôi), với làng như cái duyên. Còn cái nghiệp làm lu kể ra cũng ngồ ngộ, cứ y như ông trời muốn giao việc vậy. Hồi đó vì bom đạn ở Giồng Keo, Ba Vát (Mỏ Cày) dữ quá, Ba Tấn về làng qua lánh nạn và xin lấy lu đổi gạo. Lu bấy giờ quý lắm, phải mất một giạ rưỡi lúa mới đổi được một cái lu. Thân quen với Ba Tấn, qua lân la sang hỏi cha của hắn xin học nghề. Được đồng ý, qua lao ngay về nhà chặt quao, mướn thợ xả ván, nhờ “sư phụ” làm khuôn. Học được một tuần, qua về “mần” luôn.

Có thể tin nghề làm lu không bao giờ bế tắc?. Ảnh: T.L

- Tất cả những người làm lu trong làng hiện nay đều đi ra từ “lò” luyện của bác? Tôi lại đoán.

- Ờ, từ qua mà ra hết thảy. Qua chỉ dạy cho Tư Hinh, em ruột của qua. Nó lại chỉ cho con nó. Con nó lại chỉ cho mười đứa nữa…

- Học làm lu chắc không khó nhưng ngặt nỗi… con không thân thuộc với ai trong làng? Tôi lại gợi chuyện, thăm dò cơ hội truyền nghề cho người không có quan hệ thân thuộc với làng. Ông Hai dí dỏm: “Con muốn làm lu thì về đây… làm dâu. Nói vui chứ muốn học thì xuống đây qua dạy liền, khoảng nửa tháng là xong. Làm lu chỉ cần tính chịu khó. Con nít làng này 12, 13 tuổi là đứa nào cũng biết làm. Qua dạy luôn bí quyết trộn hồ, vì đây là khâu quan trọng để tạo nên cái lu chắc bền. Muốn làm được chiếc lu sắc sảo, nhanh nhất phải mất khoảng hai tháng. Qua từng dạy cho một người ở huyện Bình Đại. Chú này học thành nghề, sản xuất ra bán được nên giờ cũng giàu rồi”.

Hôm tôi đến thăm cơ sở làm lu của ông Hai thấy ông đang phơi hơn trăm chiếc lu cạnh bờ sông. Ông nói, đã xuất cho ghe khoảng 200 chiếc cách đó vài ngày. Ông còn làm bàn, bếp, bởi: “Muốn giàu phải đa dạng mô hình nữa!”. Còn đi ngang sân nhà của anh Văn Thành Viên thấy lu cũng chất hàng hàng. Vừa dồn sức vào đôi chân khỏe để nhồi bùn, mồ hôi nhễ nhại, anh Viên vừa nói: “Ngày nào hai vợ chồng tôi cũng phải dậy từ ba, bốn giờ sáng để làm. Còn đống bùn tôi đang nhồi là đắp được 20 lu”. Bình thường, một ngày vợ chồng anh Viên hoàn thành 20 chiếc lu. Người trong nghề hơn nhau là ở tính chịu cực. Ai ham làm và chăm chỉ thì làm suốt, kể cả buổi tối.

Đặc thù của nghề làm lu là phải bán “gối đầu”, do đó nếu làm kém chất lượng là tự giết mình. Người làm lu ngót nửa thế kỷ như ông Hai Đây qua thời gian dài trải nghiệm đã khẳng định làm lu là phải kiên trì bởi suốt thời gian bán được hàng cho thương lái rồi phải đợi hết thời gian “bảo hành” đến sáu, bảy tháng sau mới nhận tiền. Ông cho một ví dụ cụ thể: Qua bán lu cho thương lái. Thương lái bán cho người sử dụng. Nếu lu bị chảy nước, sau hơn nửa năm, thương lái sẽ chuyển lu đó ngược trở về trả cho qua. Làm mất uy tín và tên tuổi của làng tức là mất thị trường, suy sụp cơ ngơi. Như vậy có phải chết không chứ! Cho nên làm phải cho chắc ăn!

Có thể tin nghề làm lu không bao giờ bế tắc. Ở vùng sâu, vùng xa, nông thôn nghèo khó, mà nhất là những vùng nước mặn không thể thiếu lu. Ở Hòa Lợi, số lượng người sản xuất lu cũng ít tăng do đây là nghiệp cha truyền con nối. Ngày trước một cái lu đổi được một giạ lúa, còn bây giờ giá lúa tăng cao nhưng lu bán ra vẫn được giá muốn tương đương...

Bài, ảnh: Cẩm Trúc

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN