Năm 2010, kinh tế nông nghiệp Bến Tre phát triển khá toàn diện, mặc dù tình hình thời tiết có nhiều bất lợi, dịch bệnh gia tăng. Có được kết quả trên là do có sự đóng góp to lớn của các doanh nghiệp sản xuất kinh doanh trong ngành nông nghiệp. Doanh nghiệp nông nghiệp là một trong những đầu mối giữa nông dân và thị trường, tham gia vào mọi khâu từ vật tư, thiết bị, con giống đến thu mua, tiêu thụ nông sản trong nước và xuất khẩu.

Đại biểu dự hội nghị gặp gỡ nông dân, doanh nghiệp nông nghiệp.
Ảnh: H.H
Năm qua, UBND tỉnh đã ban hành chính sách khuyến khích đầu tư thúc đẩy doanh nghiệp và dân cư mở rộng đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Đến cuối năm 2010, lĩnh vực sản xuất nông - lâm - thủy sản và kinh doanh chế biến các nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp đã có 356 doanh nghiệp nông nghiệp với tổng vốn hoạt động 2.585 tỷ đồng. Riêng lĩnh vực thủy sản có số lượng doanh nghiệp nhiều nhất (218 doanh nghiệp) với vốn hoạt động 379,278 tỷ đồng. Lĩnh vực sản xuất kinh doanh gồm các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thủy sản, khai thác, nuôi trồng thủy sản. Mặc dù các doanh nghiệp thủy sản trong năm qua gặp rất nhiều khó khăn về thị trường tiêu thụ, giá cả biến động liên tục nhưng doanh thu cũng đạt khá cao với 695 tỷ đồng và thu lợi nhuận 202,511 tỷ đồng. Các doanh nghiệp nông nghiệp và dịch vụ nông nghiệp liên kết hoạt động khá ổn định với doanh thu đạt 6,407 tỷ đồng, lợi nhuận 663 triệu đồng. Các doanh nghiệp kinh doanh, chế biến có nguồn nguyên liệu từ nông nghiệp bị ảnh hưởng của giá cả bấp bênh và thị trường tiêu thụ bị thu hẹp nên doanh thu chỉ đạt 4.668 tỷ đồng, lợi nhuận 54 tỷ đồng. Theo đánh giá của Sở NN&PTNT, kết quả trên cho thấy môi trường kinh doanh của Bến Tre có bước cải thiện đáng kể. Khối lượng doanh nghiệp nông nghiệp vừa và nhỏ ngày càng đóng vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế, tăng kim ngạch xuất khẩu, thu ngân sách, giải quyết việc làm, xóa đói giảm nghèo. Các doanh nghiệp đóng góp đáng kể vào sự tăng trưởng chung của kinh tế trong tỉnh, đặc biệt là tham gia giải quyết hàng ngàn lao động nông thôn có việc làm ổn định, thu nhập cao. Một số doanh nghiệp đã mạnh dạn đầu tư mở rộng sản xuất, đổi mới trang thiết bị, công nghệ để nâng cao chất lượng sản phẩm và phát triển sản phẩm mới. Mặt khác, doanh nghiệp nông nghiệp cũng được hỗ trợ khá lớn về chính sách thuế ưu đãi nhập thiết bị công nghệ. Tỉnh cũng tạo môi trường đầu tư phát triển trên cơ sở qui hoạch giúp doanh nghiệp tìm mặt bằng sản xuất, kể cả các địa điểm riêng lẻ, các khu, cụm công nghiệp; đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính, thành lập doanh nghiệp, quảng bá sản phẩm, đầu tư cơ sở hạ tầng giao thông. Có nhiều doanh nghiệp đầu tư nhập thiết bị, công nghệ tiên tiến như các cơ sở chế biến thủy sản, chế biến thức ăn gia súc, thiết bị chuồng trại, nhiều doanh nghiệp vươn lên mở rộng thị trường. Tuy nhiên, bên cạnh thuận lợi, các doanh nghiệp cũng đã đối mặt với nhiều khó khăn thách thức do ngành nông nghiệp trong tỉnh có trình độ phát triển thấp, qui mô sản xuất nhỏ lẻ, năng suất lao động thấp, chất lượng nhiều loại nông sản không cao, sản lượng tập trung nhỏ, không đảm bảo đủ nguyên liệu sản xuất làm cho giá thành cao, chất lượng kém. Doanh nghiệp phải đối mặt với khó khăn về đất đai, lao động, vốn, cơ sở hạ tầng, giải quyết ô nhiễm môi trường. Việc tham gia thị trường, xúc tiến thương mại, mở rộng qui mô sản xuất kinh doanh và hội nhập kinh tế quốc tế còn nhiều lúng túng. Tỉnh chưa có chương trình xúc tiến thương mại theo cơ chế chi hỗ trợ từ nguồn ngân sách. Sản phẩm nông nghiệp mang tính thời vụ, phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, dễ bị ảnh hưởng dịch bệnh. Sản xuất còn manh mún, nhỏ lẻ, chất lượng sản phẩm chưa đồng đều, khả năng cạnh tranh thấp. Chu kỳ quay vòng vốn của doanh nghiệp chậm, theo chu kỳ cây trồng, vật nuôi, nên hiệu suất sử dụng vốn không cao.
Để doanh nghiệp nông nghiệp hoạt động có hiệu quả hơn, Sở sẽ phối hợp hỗ trợ xây dựng nhà máy chế biến thủy sản, nhất là trong các khu, cụm công nghiệp; khuyến khích doanh nghiệp đầu tư đổi mới thiết bị công nghệ chế biến các sản phẩm có giá trị kinh tế cao; hỗ trợ doanh nghiệp xây dựng quảng bá thương hiệu, nhất là các sản phẩm chủ lực như GlobalGAP đối với cá tra, GAP đối với vùng nuôi tôm, MSC đối với nghêu. Để doanh nghiệp phát triển ổn định, Nhà nước cần ban hành các chính sách về đất đai, vốn; hỗ trợ thông qua việc đầu tư khoa học công nghệ, khuyến công; có chính sách và cơ chế mới giúp doanh nghiệp vừa và nhỏ có điều kiện phát triển.