Luật Trưng cầu ý dân
được Quốc hội thông qua ngày 25-11-2015 gồm 8 chương, 52 điều sẽ có hiệu lực
thi hành từ ngày mai, 1-7-2016.
Dân quyết
Luật quy định, cuộc
trưng cầu ý dân hợp lệ phải được ít nhất ¾ tổng số cử tri cả nước có tên trong
danh sách cử tri đi bỏ phiếu.
Nội dung trưng cầu ý dân được quá nửa số phiếu
hợp lệ tán thành có giá trị thi hành; đối với trưng cầu ý dân về Hiến pháp quy
định tại khoản 1 Điều 6 của Luật này phải được 2/3 số phiếu hợp lệ tán thành.
Sau khi nhận và kiểm
tra báo cáo kết quả trưng cầu ý dân của UBND cấp tỉnh và giải quyết những khiếu
nại, tố cáo (nếu có), Ủy ban thường vụ Quốc hội ra nghị quyết xác định kết quả
trưng cầu ý dân trong cả nước và phải được công bố chậm nhất là 15 ngày kể từ
ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân.
Ủy ban thường vụ Quốc
hội có trách nhiệm báo cáo Quốc hội về kết quả trưng cầu ý dân tại kỳ họp gần
nhất để Quốc hội quyết định các biện pháp cần thiết để bảo đảm thực hiện kết
quả trưng cầu ý dân.
Về hiệu lực của kết
quả trưng cầu ý dân, Luật thể hiện rõ: Kết quả trưng cầu ý dân có giá trị quyết
định đối với vấn đề đưa ra trưng cầu ý dân và có hiệu lực kể từ ngày công bố.
Mọi cơ quan nhà nước,
tổ chức, cá nhân phải tôn trọng kết quả trưng cầu ý dân.
Cơ quan nhà nước, tổ
chức, cá nhân trong phạm vi nhiệm vụ, quyền hạn của mình có trách nhiệm tổ chức
và bảo đảm thực hiện nghiêm chỉnh kết quả trưng cầu ý dân.
Ai đề nghị Quốc hội
quyết định trưng cầu ý dân?
Ủy ban thường vụ Quốc
hội, Chủ tịch nước, Chính phủ hoặc ít nhất 1/3 tổng số đại biểu Quốc hội có
quyền đề nghị Quốc hội xem xét, quyết định việc trưng cầu ý dân.
Trường hợp có từ 1/3
tổng số đại biểu Quốc hội trở lên kiến nghị Quốc hội quyết định việc trưng cầu
ý dân về cùng một vấn đề thì Ủy ban thường vụ Quốc hội có trách nhiệm tổng hợp
các kiến nghị của đại biểu Quốc hội, chuẩn bị hồ sơ theo quy định trình Quốc
hội xem xét, quyết định.
Trước khi trình Quốc
hội, đề nghị trưng cầu ý dân phải được Hội đồng Dân tộc, Ủy ban có liên quan
của Quốc hội thẩm tra.
Ủy ban thường vụ Quốc
hội xem xét, cho ý kiến về đề nghị trưng cầu ý dân theo quy định. Khi xét thấy
đề nghị đáp ứng đủ các điều kiện theo quy định của Luật này, Ủy ban thường vụ
Quốc hội đưa nội dung quyết định việc trưng cầu ý dân vào dự kiến chương trình
làm việc của Quốc hội tại kỳ họp gần nhất để trình Quốc hội xem xét, quyết
định.
Không tổ chức bỏ phiếu
ở nước ngoài
Luật quy định trưng
cầu ý dân được thực hiện trong phạm vi cả nước. Ngày bỏ phiếu là ngày Chủ nhật,
do Ủy ban thường vụ Quốc hội quyết định và được công bố chậm nhất
là 60 ngày trước ngày bỏ phiếu trưng cầu ý dân.
Việc bỏ phiếu trưng
cầu ý dân bắt đầu từ 7h-19h cùng ngày. Tùy tình hình địa phương, Tổ trưng cầu ý
dân có thể quyết định cho bắt đầu việc bỏ phiếu sớm hơn nhưng không được trước
5h hoặc kết thúc muộn hơn nhưng không được quá 21h cùng ngày.
Trường hợp ở khu vực
bỏ phiếu trưng cầu ý dân đã có 100% cử tri trong danh sách thực hiện việc bỏ
phiếu thì việc bỏ phiếu ở khu vực bỏ phiếu đó có thể kết thúc sớm nhưng không
được trước 15h cùng ngày.
Luật cũng quy định
không tổ chức lại việc trưng cầu ý dân về nội dung đã được trưng cầu ý dân
trong thời hạn 24 tháng kể từ ngày kết quả trưng cầu ý dân được công bố.
Không tổ chức trưng
cầu ý dân trong thời gian ban bố tình trạng chiến tranh, tình trạng khẩn cấp
trong cả nước hoặc trong thời hạn 6 tháng kể từ ngày bãi bỏ tình trạng chiến
tranh, bãi bỏ tình trạng khẩn cấp trong cả nước.
Liên quan danh sách cử
tri và khu vực bỏ phiếu, trong điều kiện hiện nay, công dân Việt
Nam ở nước ngoài có địa bàn cư trú rải rác ở nhiều quốc gia khác nhau, việc đi
lại, liên hệ với các cơ quan đại diện của Việt Nam ở nước ngoài cũng còn xa
xôi, gặp nhiều khó khăn; điều kiện kỹ thuật của chúng ta chưa bảo đảm để tiến
hành tổ chức cho công dân Việt Nam ở nước ngoài bỏ phiếu trưng cầu ý dân nên
không quy định tổ chức.
Trường hợp cử tri là công dân Việt Nam ở nước
ngoài trở về Việt Nam trong thời gian Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân cho đến
trước thời điểm bắt đầu bỏ phiếu 24 giờ thì vẫn được ghi tên vào danh sách cử
tri, nhận thẻ cử tri để thực hiện quyền biểu quyết trưng cầu ý dân./.