Nguyễn Đình Chiểu: Người thầy của nhiều thế hệ

08/06/2022 - 14:53

BDK.VN - Với người mắt sáng, dạy học đã khó nhưng người mắt mù thì càng khó khăn vạn lần hơn. Vậy mà bằng tất cả ý chí, bằng tất cả thiện cảm đối với người đi học và quan trọng hơn là bằng tất cả kinh nghiệm qua quá trình tiếp xúc đó đây, Nguyễn Đình Chiểu sớm trở thành một nhà giáo được người đời ngưỡng mộ. Ngoài việc dạy học, sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn nghiên cứu thêm nghề làm thuốc và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân.

Bức họa cảnh cụ Nguyễn Đình Chiểu trong thời gian lưu lại chùa Tôn Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An tại phòng trưng bày di tích tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ảnh Thanh Đồng

Bức họa cảnh cụ Nguyễn Đình Chiểu trong thời gian lưu lại chùa Tôn Thạnh, huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An tại phòng trưng bày di tích tượng đài Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ảnh Thanh Đồng

Nhà giáo được người đời ngưỡng mộ

Sau biến cố của cuộc đời, Nguyễn Đình Chiểu mở trường dạy học và bốc thuốc. Thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu được gọi là Đồ Chiểu từ đó. Nguyễn Đình Chiểu ba lần di chuyển nơi ở: quê mẹ huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định (nay là Quận 1, Thành phố Hồ Chí Minh); quê vợ huyện Cần Giuộc, tỉnh Gia Định (nay là huyện Cần Giuộc, tỉnh Long An) và Ba Tri, tỉnh Bến Tre. Vì thế, trường học của người thầy giáo Nguyễn Đình Chiểu cũng thay đổi ba lần. Học trò của ông ở xung quanh và đến từ các vùng quê xa. Cũng như các nhà nho thời đó, Nguyễn Đình Chiểu sử dụng nhà mình làm trường học. Theo bà Mai Huỳnh Hoa (1910 - 1987), cháu cố (chắt ngoại) của Nguyễn Đình Chiểu viết năm 1935 trên Báo Tân Văn: “Học trò ước có hai trăm người, ngồi ra hai hàng tả hữu nghe giảng. Tiên sinh mắt đã mù, không còn xem sách được, nhưng mỗi bữa hỏi học trò tới đoạn nào, thì tiên sinh giảng đoạn ấy, như ngó thấy sách, vì tiên sinh thuộc lòng các sách”([1]).

Cách dạy của các nhà nho thời đó là truyền khẩu, giảng bài từ các bộ sách Tứ thư, Ngũ kinh, sách kinh điển của Nho giáo dưới thời nhà Nguyễn (1802 - 1945). Nội dung các sách này đã thấm vào Nguyễn Đình Chiểu khi ông được một thầy đồ trong làng giảng dạy ngay từ nhỏ. Đến năm 11 tuổi được cha gửi cho một người bạn là thái phó của triều đình Huế để Nguyễn Đình Chiểu tiếp tục ăn học. Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã học vỡ lòng trong sách “Minh tâm bửu giám”([2]). Và sau khi tiếp thu từ người thầy thuộc lò đào tạo Hòa Hưng của Võ Trường Toản([3]) về “dưỡng khí”, “tập nghĩa” nhất là cách giáo dục xuất phát từ tâm tính tốt của người Gia Định “Trung dũng, khí tiết, trọng nghĩa, khinh tài”… Nguyễn Đình Chiểu dốc lòng dạy dỗ, truyền thụ cho học trò đạo làm người, đạo lý truyền thống của dân tộc… Nhiều thế hệ môn sinh tiếp thu sự giáo dục của thầy Đồ Chiểu trở thành những người nổi tiếng, đặc biệt trong đó có 2 nhân vật đã có những đóng góp sâu sắc cho sự đổi mới của văn hóa Việt Nam đầu thế kỷ XX. Đó là Nguyễn Thị Khuê (tức Sương Nguyệt Anh) (1864 - 1921), nhà thơ, nữ chủ bút (Tổng biên tập) đầu tiên của Việt Nam, báo Nữ Giới Chung (Tiếng chuông nữ giới) tờ báo đầu tiên của phụ nữ Việt Nam, xuất bản ở Sài Gòn năm 1918. Và nhân vật thứ hai là Nguyễn Đình Chiêm (1869 - 1935) hành nghề đông y; ngoài ra, ông còn sáng tác, dịch thơ, là tác giả hai vở tuồng Phong Ba đình và Phấn Trang lầu. Nhiều người dân vùng Ba Tri, Bến Tre còn nhớ ông nội, ông thân sinh của mình kể lại trước đây từng là học trò của Nguyễn Đình Chiểu.

Ngoài ra, Nguyễn Đình Chiểu còn có hai học trò ưu tú hoạt động tích cực trong phong trào Phật giáo yêu nước là Hòa thượng Lê Khánh Hòa (1877 - 1947), người có công lớn trong phong trào chấn hưng Phật giáo ở Nam kỳ những năm 1920 - 1945 và Hòa thượng Thích Khánh Thông (1871 - 1953), cũng là người có uy tín lớn trong giới tăng, ni, Phật tử ở Bến Tre những thập niên nửa đầu thế kỷ XX.

Với người mắt sáng, dạy học đã khó nhưng người mắt mù thì càng khó khăn vạn lần hơn, vậy mà bằng tất cả ý chí, bằng tất cả thiện cảm đối với người đi học và quan trọng hơn là bằng tất cả kinh nghiệm qua quá trình tiếp xúc đó đây, Nguyễn Đình Chiểu sớm trở thành một nhà giáo được người đời ngưỡng mộ.

Ngày nay, cả nước đang nỗ lực chấn hưng ngành giáo dục. Nhiều chủ trương, biện pháp, phong trào… được ngành giáo dục triển khai sâu rộng ở các cấp học. Trong đó, vấn đề “dạy chữ kết hợp dạy người” chính là sự kế thừa những tinh hoa giáo dục của các bậc tiền nhân mà Nguyễn Đình Chiểu là một người thầy tiêu biểu với triết lý “văn dĩ tải đạo”([4]), sửa đời, dạy người. Noi gương người thầy - Nguyễn Đình Chiểu, mỗi nhà giáo phải phấn đấu tu dưỡng để thực sự xứng đáng với danh xưng thầy giáo, hãy làm tốt hơn nữa trọng trách “trồng người” để cho ra đời những “sản phẩm” có đủ tài, đức, góp phần xây dựng văn hóa, con người Việt Nam phát triển toàn diện, bền vững.

Người thầy thuốc mẫu mực

Ngoài việc dạy học, sáng tác thơ văn, Nguyễn Đình Chiểu còn nghiên cứu thêm nghề làm thuốc và bốc thuốc chữa bệnh cho nhân dân. Nếu nói đến những danh y xuyên suốt lịch sử của Việt Nam từ xưa đến nay không chỉ nổi danh bởi tài năng y học, chữa bệnh cứu người mà còn được biết đến như những nhà văn, nhà thơ, chiến sĩ cách mạng, luôn đau đáu vì vận nước, vì nhân dân thì Nguyễn Đình Chiểu xếp ở vị trí thứ ba chỉ sau Tuệ Tĩnh([5]) và Hải Thượng Lãn Ông (Lê Hữu Trác)([6]). Và trong 300 năm trở lại đây, Nguyễn Đình Chiểu là người thứ nhất đạt được những thành tựu trên lĩnh vực y thuật và y đạo.

Dưới mái chùa Tôn Thạnh, huyện Cần Giuộc (Long An), cụ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác thơ Lục Vân Tiên và tác phẩm Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ảnh: Thanh Đồng

Dưới mái chùa Tôn Thạnh, huyện Cần Giuộc (Long An), cụ Nguyễn Đình Chiểu đã sáng tác thơ Lục Vân Tiên và tác phẩm Văn tế Nghĩa sĩ Cần Giuộc. Ảnh: Thanh Đồng

 Nguyễn Đình Chiểu một thầy thuốc giỏi, một lương y thông hiểu sâu sắc y lý phương Đông và y lý Việt Nam, cả về y thuật và y đức mà y đức của Nguyễn Đình Chiểu chính là đạo cứu người lồng trong nghĩa vụ cứu dân, cứu nước. Bằng vốn kiến thức đã có từ trước, và sau khi được danh y truyền dạy nghề làm thuốc trong thời gian điều trị bệnh ở Quảng Nam, Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu học thêm, trở thành lương y chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến mọi người. Ngư Tiều y thuật vấn đáp khái quát nội dung và nói lên quan điểm y học của tác giả, biện luận trên cơ sở âm dương - những điều thiết yếu nhất về phương pháp và đường hướng trị bệnh. Nói lên một đường hướng y học chân chính, cả về đạo đức và chuyên môn. Nguyễn Đình Chiểu đã nghiên cứu nghề thuốc rồi làm lương y để chữa bệnh cho dân và viết sách thuốc truyền tâm nguyện đến mọi người. Ông đã dốc lòng giới thiệu nghề thuốc của mình và trình bày những cương mục về lí luận Đông y có kèm theo giải thích một số thuật ngữ thiết yếu liên quan đến ngành y. Nhất là vấn đề về y thuật gồm có các phần: Mạch, chế dược, vận khí, thương hàn, sản phụ, nhi khoa... Rồi đến ngũ tạng trong cơ thể con người bao gồm tâm, can, tỳ, phế, thận, là những tạng khí có công năng tàng trữ và gạn lọc, chế tạo ra tinh khí. Một tạng bị bệnh sẽ ảnh hưởng đến sự vận hành chung. Ông cũng chỉ ra những bài thuốc cụ thể: cây cỏ đều có chất độc lành khác nhau, chưa rõ tính chớ nên dùng… Có những nguyên lý cơ bản của Đông y đã được Nguyễn Đình Chiểu trình bày trên cơ sở âm dương, thủy hỏa, khí huyết. Ông đã trình bày một cách cụ thể về cách chữa bệnh vì bệnh có “hư hư thực thực”, biến đổi nhiều, nhiều chứng, nhiều phương. “Chữa bản” là chữa thẳng vào bệnh. “Nên bổ” nghĩa là lối chữa bệnh chủ yếu về dinh dưỡng, dùng thuốc để phục hồi sức khỏe. “Nên trước nên sau” là bệnh nào gấp hơn thì chữa trước nhưng phải tùy nghi mà dùng. Chỉ cần chẩn trị sai lệch một chút thì sẽ an nguy đến tính mạng. Với 66 tuổi đời, gần 40 năm chữa bệnh cứu người, đối với một thầy thuốc bình thường điều ấy đã là một đóng góp, nhưng với một thầy thuốc mù lòa như Nguyễn Đình Chiểu, càng đáng ghi nhận.

Bên cạnh về chuyên môn, trong quá trình hành nghề đây đó của mình, Nguyễn Đình Chiểu cũng đã nhận thấy một số người không nắm rõ về y thuật, chỉ am hiểu một vài phương thuốc lăng nhăng cũng tự cho mình là thầy thuốc, làm nghề chữa bệnh. Vì thế, Ngư Tiều y thuật vấn đáp ra đời, ngoài tác dụng động viên lòng yêu nước, chí căm thù Nhân dân đối với quân thù, đều cần nhất là nêu ra những vấn đề nhằm chấn hưng y học cổ truyền, xây dựng một nghề y chân chính. Tác phẩm thể hiện tư tưởng y đức học của Nguyễn Đình Chiểu là toàn diện, cao cả; ông khuyên người thầy thuốc cần trao dồi cả tài năng và đức độ trong cuộc đời hành nghề của mình. Nguyễn Đình Chiểu đề cao tinh thần, trách nhiệm của người thầy thuốc đối với tính mạng bệnh nhân, thương yêu người bệnh: “Thấy người đau giống mình đau/ Phương nào cứu đặng mau mau trị lành”. Và răn ngừa việc lợi dụng hay lừa dối người bệnh để lấy tiền một cách vô lương tâm: “Vốn không theo thói tham nhăng/ Nhân khi bệnh ngặt đòi ăn của nhiều”. Đặc biệt, Nguyễn Đình Chiểu dốc lòng cứu chữa cho những người nghèo khổ, chu cấp thuốc men, tận tình giúp đỡ họ mà không phân biệt đối xử: “Đứa ăn mày cũng trời sinh/ Bệnh còn cứu đặng thuốc dành cho không”.

Nguyễn Đình Chiểu, không những chữa bệnh về thể xác mà còn chữa bệnh về tinh thần. Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp đủ thấy biệt tài về y học của Nguyễn Đình Chiểu, cụ đã nói lên các chứng bệnh với bệnh lý một cách sâu sắc, đồng thời cũng hàm chứa một tinh thần yêu nước, thương dân; như lời Giáo sư Lê Trí Viễn từng viết trong đề tựa quyển Ngư tiều y thuật vấn đáp lần xuất bản năm 1982 rằng: “Y thuật ấy là kết tinh nghề thuốc trong hằng trăm bộ sách của mấy mươi thế kỷ. Yêu nước ấy có chiều sâu cá nhân một đời người và chiều sâu lịch sử dân tộc hằng mấy ngàn năm. Nhưng cả hai đều đúc lại thành một thang thuốc hồi sinh, một đạo lý sống, một con đường phù hợp cho những con người yêu nước bình thường trong tình hình quê hương rơi vào tay giặc: giữ vững khí tiết không phục vụ quân thù, làm một công việc vừa có ý nghĩa vừa giúp dân, vừa giúp nước...”.

Tác phẩm Ngư tiều y thuật vấn đáp đã cho chúng ta học tập ở Nguyễn Đình Chiểu tinh thần yêu nước chân thành, ý chí đấu tranh bất khuất, đạo đức liêm chính, khắc khổ, nhẫn nại, cần cù lao động và kiên trì trong sự nghiệp của mình, với mục đích phục vụ lợi ích lâu dài cho Tổ quốc. Với y thuật và y đạo để vừa cứu người, vừa cứu dân, cứu nước, Nguyễn Đình Chiểu xứng đáng là một danh y, danh sư - Người thầy thuốc mẫu mực trong lòng Nhân dân. Học tập tấm gương Nguyễn Đình Chiểu chúng ta tiếp tục phấn đấu để không ngừng phát triển toàn diện, góp phần quan trọng vào sự nghiệp chăm sóc, bảo vệ và nâng cao sức khỏe nhân dân.

(Còn tiếp)

Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy

 


([1]) Tư liệu này do Mai Huỳnh Hoa được nghe từ bà Nguyễn Thị Xuân Khuê, tức Năm Hạnh, con gái Nguyễn Đình Chiểu.
([2]) Gương báu soi sáng cõi lòng.
([3]) Người thầy của Nguyễn Đình Chiểu vốn là học trò của Nghè Chiêu, mà Nghè Chiêu lại là học trò của cụ Võ Trường Toản.
([4]) Dùng văn chương để truyền tải đạo lý làm người.
([5]) Ông Được biết đến như là người đã đặt nền móng cho nền y học cổ truyền Việt Nam với tư tưởng: “Nam dược trị Nam nhân” (thuốc Nam chữa bệnh cho người nước Nam). Ông được xem là bậc thầy của thầy thuốc Việt, ông tổ. của ngành y nước nhà.
([6]) Ông vừa chữa bệnh, vừa dạy học, vừa biên soạn sách y khoa. Quyển sách “Y tông tâm lĩnh” được ông biên soạn trong từ những năm 1760 - 1770 và đến khoảng 20 năm sau trước một năm ông mất (1790) ông còn bổ sung thêm vào một số phần khác. Toàn bộ sách Hải Thượng để lại mà ngày nay chúng ta được thừa hưởng như một tài sản vô giá của nền y học cổ truyền Việt Nam gọi là “Hải Thượng Y tông tâm lĩnh”.
Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN