Với tinh thần làm việc nghiêm túc, khẩn trương, trách nhiệm cao, Hội nghị lần thứ 10 Ban Chấp hành (BCH) Đảng bộ tỉnh khóa XI (chương trình họp ngày thứ nhất) đã hoàn thành nội dung đề ra. Các đồng chí Ủy viên BCH Đảng bộ tỉnh và đại biểu đã tham gia 24 ý kiến, các ý kiến tương đối toàn diện, cụ thể, góp ý, thảo luận, phân tích, làm rõ những nhận định, đánh giá về kết quả đạt được, những hạn chế trong lãnh đạo, tổ chức thực hiện Nghị quyết (NQ) của Tỉnh ủy trong 9 tháng năm 2022 cũng như các nội dung khác của hội nghị. Các ý kiến đóng góp, thảo luận nhiệm vụ quý IV-2022 của hội nghị là thẳng thắn, thể hiện tinh thần dân chủ, trách nhiệm và trí tuệ cao. Những nội dung nêu tại hội nghị được Ban Thường vụ (BTV) Tỉnh ủy tổng hợp, giải trình, tiếp thu nghiêm túc và chỉ đạo nghiên cứu, bổ sung vào các văn bản hội nghị để chính thức ban hành và triển khai thực hiện.
Để kết thúc chương trình làm việc của ngày thứ nhất của hội nghị, thay mặt BTV Tỉnh ủy, tôi xin làm rõ một số nội dung và khái quát lại, tổng kết những kết quả chủ yếu mà hội nghị đạt được. Tổng hợp theo 2 nhóm nội dung lớn như sau:
BCH Đảng bộ tỉnh đánh giá cao sự chuẩn bị báo cáo, cơ bản đồng tình với những nhận định, đánh giá, đề xuất nêu trong Tờ trình của BTV Tỉnh ủy. Hội nghị đã tập trung kiểm điểm, đánh giá tình hình kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác xây dựng Đảng trong 9 tháng năm 2022; đồng thời, thảo luận các nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm trong 3 tháng cuối năm 2022. BTV Tỉnh ủy xin tiếp thu ý kiến đóng góp của các đồng chí, giao Văn phòng Tỉnh ủy bổ sung, hoàn thiện báo cáo, nhất là các giải pháp cần tập trung thực hiện trong 3 tháng cuối năm 2022.
Tôi xin nhấn mạnh các nội dung cần tập trung lãnh đạo thực hiện tốt trong thời gian tới:
(1) Phân tích bối cảnh tình hình, hội nghị đồng tình với nhận định: 9 tháng năm 2022, tình hình kinh tế - xã hội chung của cả nước tiếp nối đà phục hồi và phát triển sau đại dịch Covid-19, tiếp tục khởi sắc, đạt kết quả tích cực trên hầu hết các ngành, lĩnh vực. Kinh tế vĩ mô ổn định. Sản xuất công nghiệp phục hồi nhanh, sản xuất nông, lâm, thủy sản ổn định và có tăng trưởng. Thương mại, dịch vụ sôi động, phục hồi nhanh ở tất cả các ngành. Các hoạt động chăm lo cho đối tượng chính sách, người nghèo, người lao động được triển khai tích cực, hiệu quả. Nhiều vấn đề tồn đọng kéo dài, dự án (DA), doanh nghiệp (DN) kém hiệu quả đã được chỉ đạo quyết liệt, từng bước khơi thông nguồn lực cho nền kinh tế. Tuy nhiên, nước ta còn không ít khó khăn, thách thức phải đối mặt: sức ép lạm phát cao; tiến độ giải ngân đầu tư công chậm và chưa đạt mục tiêu; thu hút vốn FDI chưa đạt như kỳ vọng; đời sống một bộ phận người dân còn khó khăn, nhất là tại vùng sâu, vùng xa và người yếu thế; tác động của cuộc xung đột Nga - Ukraine ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến nền kinh tế Việt Nam trong điều kiện hội nhập quốc tế ngày càng sâu rộng. Trong bối cảnh đó, Tỉnh ủy đã tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo, dự báo tình hình không để bị động, bất ngờ nên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Tuy nhiên, so với chỉ tiêu của NQ năm 2022, nhiệm vụ còn lại rất nặng nề, đòi hỏi toàn Đảng bộ và nhân dân phải phát huy tinh thần đoàn kết, đồng thuận, sáng tạo, quyết tâm, nỗ lực vượt qua khó khăn, thách thức để phấn đấu hoàn thành tốt các chỉ tiêu NQ Tỉnh ủy đề ra. Hội nghị đã thảo luận và thống nhất với 12 nhóm nhiệm vụ, giải pháp trọng tâm tiếp tục tập trung thực hiện từ nay đến cuối năm. Đồng thời, cần chủ động rà soát, bám sát NQ đại hội, nỗ lực thực hiện các chỉ tiêu, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp có kết quả cụ thể để đánh giá sơ kết giữa nhiệm kỳ bảo đảm thực chất, góp phần thực hiện có kết quả NQ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI.
(2) Hoàn chỉnh xây dựng quy hoạch BCH Đảng bộ tỉnh, BTV Tỉnh ủy và chức danh diện Trung ương quản lý nhiệm kỳ 2025 - 2030, 2026 - 2031 trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch chức danh theo quy định. Chú trọng công tác luân chuyển, chuyển đổi vị trí công việc, điều động cán bộ theo quy hoạch, công tác đào tạo, bồi dưỡng, phân công cán bộ sau quy hoạch để tăng cường rèn luyện, thử thách, xây dựng đội ngũ cán bộ ngang tầm nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu phát triển tỉnh.
(3) Xây dựng, hoàn thiện Quy hoạch tỉnh Bến Tre thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 thật sự chất lượng để trình cấp có thẩm quyền thẩm định, phê duyệt theo quy định.
(4) Tập trung chỉ đạo từ nay đến cuối năm giải ngân 100% đối với nguồn vốn đầu tư ngân sách nhà nước, kể cả Trung ương và địa phương. Đối với vốn bổ sung chương trình phục hồi, phát triển kinh tế - xã hội năm 2022, 2023 cần phối hợp chặt chẽ, xúc tiến các phần việc liên quan, thực hiện đồng thời các hồ sơ để khi có đủ cơ sở pháp lý thì có thể ban hành được ngay, để có thể giải ngân đúng tiến độ năm 2022. Đối với việc giải ngân nguồn vốn các DA ODA, cần rà soát, đánh giá khách quan và có trách nhiệm, thực hiện tối đa các phần việc có thể làm được từ nay đến cuối năm 2022. Đối với những DA gặp khó về vấn đề hồ sơ, thủ tục, dẫn đến chậm tiến độ, không còn khả thi trong năm nay thì có văn bản báo cáo các bộ, ngành Trung ương xin dời sang năm 2023, nêu rõ lý do. Đề nghị Ban cán sự đảng UBND tỉnh chỉ đạo các đơn vị lập kế hoạch cụ thể trong điều hành công việc, đồng bộ và bám sát kế hoạch để phối hợp công việc nhịp nhàng giữa các đơn vị. Liên quan đến vấn đề giải phóng mặt bằng và giải ngân hỗ trợ người dân tái định cư tại các công trình, DA, yêu cầu các huyện, thành phố, đơn vị liên quan khẩn trương làm các công việc, đề xuất phương án bố trí nguồn vốn để nhanh chóng giải quyết, khẩn trương chuyển giao tái định cư cho người dân, nhanh chóng bàn giao mặt bằng cho thi công.
Bí thư Thành ủy TP. Bến Tre Nguyễn Văn Tuấn phát biểu. Ảnh: Hữu Hiệp
Đối với các công trình, DA trọng điểm được NQ Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ XI đề ra, tôi đề nghị các đồng chí trong Tỉnh ủy thể hiện trách nhiệm cao, phát huy vai trò tiên phong, gương mẫu của người đứng đầu các cấp ủy, tổ chức đảng, các cơ quan tham mưu, các đồng chí là tư lệnh các sở, ngành, cơ quan, theo chức năng, nhiệm vụ, chủ động, khẩn trương, quyết liệt, trách nhiệm trong triển khai công việc, phát huy sức mạnh đại đoàn kết của tập thể, phối hợp, hợp tác chặt chẽ, vì công việc chung của tỉnh, đẩy nhanh công việc đang thực hiện, tháo gỡ ngay những khó khăn, vướng mắc, bảo đảm chất lượng, hiệu quả, tiến độ công trình, DA theo kế hoạch đã đặt ra. Thanh lý nhà đất công không sử dụng để tăng thu ngân sách nhà nước phục vụ cho đầu tư phát triển.
Đối với yêu cầu phát triển đô thị, cần phân loại, lựa chọn những DA khả thi nhất để xúc tiến thực hiện nhanh, theo đúng quy định của pháp luật, chú ý quản lý quy hoạch tổng thể, các chỉ số xây dựng đúng quy định pháp luật về quy hoạch đô thị và phát triển bền vững.
Tiếp tục thúc đẩy nhanh tiến độ thực hiện các DA thủy lợi theo kế hoạch. Chủ động rà soát, gia cố các công trình để bảo đảm an ninh thủy lợi, phòng chống hạn mặn trong mùa khô sắp tới. Các DA nuôi tôm công nghệ cao cần làm nhanh đầu tư hệ thống hạ tầng, mời gọi đầu tư công nghiệp chế biến tôm tại tỉnh.
Đối với các công trình điện gió, cần chú ý quy hoạch tổng thể phát triển điện gió gắn với chiến lược lấn biển, quy hoạch nguồn điện đi liền với đường truyền tải điện, phát triển hạ tầng phân phối điện. Xử lý dứt điểm, rõ ràng những vấn đề đặt ra đối với các DA điện gió đã được cấp phép.
Đối với các DA giao thông, cần tiếp tục đẩy nhanh tiến độ giải phóng mặt bằng, tái định cư; xúc tiến việc đấu thầu, triển khai các DA theo quy định hiện hành về khai thác cát phục vụ các công trình, DA, tạo luồng lạch giao thông, trữ nước ngọt và tăng thu ngân sách nhà nước; thống nhất hướng tuyến với các tỉnh Tiền Giang, Trà Vinh về đường ven biển để trình các bộ, ngành Trung ương…
Giám đốc Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Nguyễn Văn Bàn phát biểu Ảnh: Hữu Hiệp
Các DA về văn hóa, cần phối hợp chặt chẽ, đôn đốc, đẩy nhanh tiến độ Đề án Làng Văn hóa du lịch Chợ Lách và Trung tâm Cây giống, hoa kiểng Chợ Lách, làm việc với các nhà đầu tư tiềm năng thu hút đầu tư, từ đó xác định những nội dung Nhà nước đầu tư, DN đầu tư để định hình các DA. Xúc tiến tiếp các nội dung thiết thực để thành lập Trường Đại học Tây Nam Bộ, cần nghiên cứu, thay đổi cách làm phù hợp. Thúc đẩy tiếp phong trào Đồng khởi khởi nghiệp và phát triển DN - thành lập mới 5.000 DN, xây dựng 100 DN dẫn đầu, cải thiện môi trường đầu tư kinh doanh và nâng cao năng lực cạnh tranh của tỉnh.
(5) Tăng cường công tác phối hợp thông tin, dự báo, tuyên truyền phòng chống thiên tai, giông lốc, bão cuối mùa và dự báo hạn mặn trong mùa khô năm 2022-2023. Chú trọng đến các giải pháp công trình và phi công trình trong phòng chống hạn mặn; phát động tích trữ nước mưa, nước ngọt trong nhân dân; vận hành hiệu quả hệ thống thủy lợi nội đồng, đê bao cục bộ; thường xuyên kiểm tra vận hành hệ thống thủy lợi bảo đảm hoạt động hiệu quả.
(6) Tăng cường quan hệ đối ngoại trong nước, ngoài nước; phát triển các hoạt động hợp tác, liên kết vùng đồng bằng sông Cửu Long, vùng duyên hải phía Đông, liên kết với TP. Hồ Chí Minh và vùng kinh tế trọng điểm phía Nam; tổ chức các đoàn đi học tập kinh nghiệm với các tỉnh, thành phố ở các vùng miền trong nước theo các chuyên đề cụ thể, thực chất. Phát triển mối quan hệ tốt với các ban, bộ, ngành Trung ương. Phát triển quan hệ hợp tác với các quốc gia, vùng lãnh thổ có tiềm năng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư với địa phương nhưng phải rất thực chất, không phô trương, hình thức. Chủ động tiếp xúc, gặp gỡ ngoại giao, xúc tiến thương mại, xúc tiến đầu tư, hợp tác của tỉnh với các đại sứ, tổng lãnh sự, tham tán thương mại của các nước có hoạt động ngoại giao tại Việt Nam vì mục đích chung cho sự phát triển tỉnh.
Đại biểu tham dự hội nghị. Ảnh: Hữu Hiệp
2- Nhóm nội dung thứ 2: Thảo luận cho ý kiến về sơ kết các báo cáo của Trung ương, của Tỉnh ủy và các chương trình thực hiện NQ Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII và NQ của Bộ Chính trị
- Đối với các báo cáo sơ kết các văn bản của Trung ương, của Tỉnh ủy: Các ý kiến thảo luận tại hội nghị thống nhất cao với dự thảo các báo cáo, đồng thời, đánh giá, bổ sung làm rõ hơn kết quả quán triệt, cụ thể hóa triển khai thực hiện và kết quả bước đầu, mặt được, hạn chế, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan và đề xuất các giải pháp trong thời gian tới. Nhìn chung, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị đã triển khai, quán triệt và tổ chức thực hiện có kết quả Chương trình của Tỉnh ủy thực hiện NQ số 36-NQ/TW ngày 22-10-2018 của BCH Trung ương Đảng khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; NQ số 01-NQ/TU của Tỉnh ủy về chuyển đổi số (CĐS) tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030; NQ số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030. Thời gian tới, các cấp, các ngành, cơ quan, đơn vị cần chủ động xác định nhiệm vụ trọng tâm của cơ quan, đơn vị mình trong thực hiện nhiệm vụ, từ đó xác định phương pháp, cách làm để đạt được những kết quả cụ thể.
- Đối với việc triển khai thực hiện NQ số 01-NQ/TU ngày 20-10-2021 của Tỉnh ủy về CĐS tỉnh Bến Tre giai đoạn 2020 - 2025, tầm nhìn đến năm 2030: Trong thời gian tới cần tiếp tục tuyên truyền, quán triệt sâu rộng về ý nghĩa, tầm quan trọng của NQ số 01-NQ/TU. Xác định CĐS vừa là nhiệm vụ quan trọng, là xu thế tất yếu, đòi hỏi khách quan của sự phát triển, vừa là nhiệm vụ cấp bách. Đặc biệt nâng cao nhận thức CĐS cho tất cả cán bộ, công chức, viên chức và người lao động thuộc cơ quan quản lý để làm nòng cốt lan tỏa nhận thức CĐS đến gia đình, người thân và xã hội, tránh thực hiện theo hình thức. Xây dựng cơ chế, chính sách để hỗ trợ, thúc đẩy phát triển các DN CĐS toàn diện, hiệu quả, phù hợp với môi trường số; tạo điều kiện thuận lợi thúc đẩy hoạt động khởi nghiệp, đổi mới sáng tạo; tích cực thu hút các DN số đầu tư vào tỉnh.
- Đối với Chương trình của Tỉnh ủy thực hiện NQ số 36-NQ/TW của BCH Trung ương Đảng khóa XII về chiến lược phát triển bền vững kinh tế biển Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và NQ số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy về phát triển Bến Tre về hướng Đông giai đoạn 2021 - 2025 và tầm nhìn đến năm 2030: Thời gian tới, các cấp ủy, chính quyền, đoàn thể tập trung chỉ đạo, thực hiện các mục tiêu, nhiệm vụ nêu trong NQ số 36-NQ/TW và NQ số 04-NQ/TU của Tỉnh ủy. Thường xuyên theo dõi, kiểm tra, đánh giá việc triển khai các nhiệm vụ, kế hoạch để kịp thời chỉ đạo thực hiện đạt kết quả trên từng lĩnh vực; cần tập trung làm tốt công tác quy hoạch chung; quy hoạch xây dựng; quy hoạch sử dụng đất; quan tâm triển khai các khu lấn biển; kiến nghị khắc phục các khó khăn, vướng mắc vấn đề điện gió; tập trung phát triển ngành khai thác, nuôi trồng, chế biến thủy sản và dịch vụ hậu cần nghề cá, nuôi tôm công nghệ cao; phát triển kinh tế biển phải gắn với phát triển kinh tế, xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh, thích ứng và phòng chống biến đổi khí hậu.
- Đối với dự thảo các chương trình thực hiện NQ Hội nghị Trung ương 5 khóa XIII và NQ của Bộ Chính trị: Đây là các NQ rất quan trọng, cụ thể hóa nhiều lĩnh vực quan trọng và có tính chiến lược, tác động đến nhiều lĩnh vực, nhất là công tác xây dựng Đảng và phát triển kinh tế. Do đó, việc cụ thể hóa đã làm cơ bản chặt chẽ, công phu, trải qua nhiều bước trước khi trình hội nghị Tỉnh ủy xem xét, quyết định. Đặc biệt, hội nghị lần này đã tổ chức lấy ý kiến bằng văn bản đối với các đồng chí tham dự hội nghị đối với các văn bản trình hội nghị. Nhìn chung qua các ý kiến góp ý cơ bản thống nhất với dự thảo chương trình BTV Tỉnh ủy trình Tỉnh ủy, đồng thời, tiếp tục đề xuất nhiều giải pháp để triển khai có kết quả các chương trình. BTV Tỉnh ủy xin ghi nhận, tiếp thu các ý kiến góp ý. Giao Văn phòng Tỉnh ủy tiếp thu, hoàn chỉnh để trình ký triển khai thực hiện. Trong quá trình tổ chức thực hiện, đề nghị các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị, địa phương, quán triệt nghiêm túc, đồng thời cụ thể hóa sát với tình hình thực tế của ngành, địa phương, đơn vị.
Bí thư Huyện ủy Chợ Lách Nguyễn Văn Đảm phát biểu. Ảnh: Thanh Đồng
Tôi xin nhấn mạnh một số nội dung đối với từng chương trình cụ thể như sau:
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 18-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 5 BCH Trung ương Đảng khóa XIII “về tiếp tục đổi mới, hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý và sử dụng đất, tạo động lực đưa nước ta trở thành nước phát triển có thu nhập cao”: Cấp uỷ, tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ, các tổ chức chính trị - xã hội tiếp tục đẩy mạnh công tác tuyên truyền giáo dục để cán bộ, đảng viên và nhân dân hiểu đúng, đầy đủ về đất đai thuộc sở hữu toàn dân do Nhà nước là đại diện chủ sở hữu và thống nhất quản lý, nhất là về quyền và nghĩa vụ của Nhà nước với tư cách là đại diện chủ sở hữu theo quy định của Hiến pháp và pháp luật; quyền và nghĩa vụ của tổ chức, hộ gia đình và cá nhân được Nhà nước giao quyền sử dụng đất nhằm nâng cao nhận thức, tạo sự đồng thuận trong triển khai thực hiện. Trong Quy hoạch tỉnh và các quy hoạch ngành, lĩnh vực có sử dụng đất phải bảo đảm phù hợp, thống nhất, đồng bộ, gắn kết chặt chẽ, thúc đẩy lẫn nhau để phát triển. Chỉ đạo hoàn thành quy hoạch tỉnh đến năm 2030, tầm nhìn đến 2050, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất của tỉnh theo quy định. Thực hiện việc giao đất, cho thuê đất thông qua đấu giá quyền sử dụng đất, đấu thầu DA có sử dụng đất. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm quy định về giao đất, cho thuê đất, nhất là liên quan tới đấu giá quyền sử dụng đất và đấu thầu DA có sử dụng đất. Chủ động rà soát, đề xuất, kiến nghị, tham gia xây dựng hoàn thiện khung pháp lý và chính sách, pháp luật về nông nghiệp, nông thôn; chính sách đất đai phù hợp với yêu cầu phát triển mới.
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 19-NQ/TW ngày 16-6-2022, Hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương Đảng khóa XIII về “nông nghiệp, nông dân, nông thôn đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”: Tập trung thực hiện kịp thời, đồng bộ, có hiệu quả các cơ chế, chính sách của Trung ương, của tỉnh trên lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn, nhất là chính sách đầu tư vào nông nghiệp, nông thôn, phát triển kinh tế tập thể… đẩy mạnh việc xã hội hóa trong công tác cung cấp nước sạch, giáo dục, y tế, gắn với việc tiếp tục nâng cao chất lượng giáo dục, y tế trong hệ thống công lập; tiếp tục duy trì và nâng chất các tiêu chí văn hóa tại các ấp, xã đạt chuẩn văn hóa; tập trung nguồn lực hợp lý để thực hiện tốt quy hoạch đô thị, khu dân cư vùng nông thôn… tạo tiền đề vững chắc cho phát triển kinh tế - xã hội vùng nông thôn, góp phần nâng cao đời sống vật chất, tinh thần và thay đổi diện mạo nông thôn; cần có cơ chế, cách làm phù hợp thực hiện tích tụ ruộng đất để tạo vùng sản xuất tập trung; tham gia tích cực vào chuỗi giá trị sản phẩm, liên kết sản xuất tạo sản phẩm sạch, an toàn, nông dân liên kết với nhau và cơ chế đầu tư, hỗ trợ nguồn lực cho nông dân, cụ thể hóa thực hiện các chính sách về bảo hiểm nông nghiệp và quản lý rủi ro nông nghiệp. Tập trung xây dựng và thực hiện bằng được mục tiêu về xây dựng nông thôn mới của tỉnh. Về nội dung đề nghị Ban cán sự đảng UBND tỉnh tiếp thu thêm các ý kiến của Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật và các nhà khoa học để hoàn chỉnh trình ban hành.
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 20-NQ/TW ngày 16-6-2022, Hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương Đảng khóa XIII về “tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế tập thể (KTTT) trong giai đoạn mới”: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, quán triệt sâu rộng trong cán bộ, đảng viên và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí, tầm quan trọng của phát triển KTTT; coi việc đổi mới khu vực KTTT, nòng cốt là các hợp tác xã (HTX) là nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm của cả hệ thống chính trị. Đầu tư xây dựng điển hình (HTX, tổ hợp tác, liên hiệp HTX…), từ đó nhân rộng điển hình. Triển khai thật tốt các hình thức tuyên truyền, làm cho người dân thấy rõ lợi ích khi tham gia HTX, là xu thế tất yếu trong quá trình phát triển. KTTT với nhiều hình thức tổ chức đa dạng, kết hợp sức mạnh tập thể với sức mạnh của từng thành viên. Xây dựng cơ chế, chính sách khuyến khích, hỗ trợ phát triển KTTT với nhiều hình thức tổ chức kinh tế hợp tác đa dạng, phát triển từ thấp đến cao (tổ hợp tác, HTX, liên hiệp HTX...) và các tổ chức đại diện để nâng cao khả năng huy động vốn, tăng tích lũy vốn và tài sản chung, nâng cao tính minh bạch trong quản lý, điều hành; nâng cao hiệu quả, chất lượng chính sách hỗ trợ của Nhà nước, quản lý Nhà nước đối với KTTT; tạo môi trường kinh doanh thuận lợi, giúp các tổ chức KTTT phát triển bền vững. Có cơ chế, chính sách ưu đãi, hỗ trợ đặc thù của tỉnh nhằm phát triển KTTT trên địa bàn tỉnh.
Bí thư Huyện ủy Mỏ Cày Nam Hà Quốc Cường phát biểu. Ảnh: Hữu Hiệp
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 21-NQ/TW, Hội nghị lần thứ 5, BCH Trung ương Đảng khóa XIII về tăng cường củng cố, xây dựng tổ chức cơ sở đảng (TCCSĐ) và nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên trong giai đoạn mới: Tiếp tục sắp xếp, kiện toàn TCCSĐ đồng bộ với đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị và công tác cán bộ, nhất là đối với cấp xã; đổi mới mô hình TCCSĐ ở cơ quan Đảng, Nhà nước, MTTQ Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội, hội quần chúng ở cấp tỉnh và cấp huyện phù hợp với tình hình cơ quan, đơn vị, gắn với thực hiện các NQ, kết luận, quy định của Trung ương về tiếp tục đổi mới, sắp xếp tổ chức bộ máy của hệ thống chính trị tinh gọn, hoạt động hiệu lực, hiệu quả. Đổi mới nội dung, phương thức, phong cách lãnh đạo, lề lối làm việc của cấp ủy theo hướng gần dân, sát cơ sở gắn với thực hiện phương châm “tỉnh nắm tới xã; huyện nắm tới ấp, khu phố; xã nắm tới hộ gia đình”, nâng cao tinh thần trách nhiệm, năng lực của cấp uỷ, bí thư cấp uỷ ở cơ sở. Nâng cao chất lượng, hiệu quả NQ của chi bộ, ban hành NQ sát thực tế và làm tốt việc phân công đảng viên tổ chức thực hiện. Kịp thời cụ thể hoá chủ trương của cấp trên phù hợp với thực tiễn và nhiệm vụ chính trị của TCCSĐ, giải quyết kịp thời những vấn đề phát sinh. Lấy hiệu quả hoạt động của TCCSĐ là một trong những căn cứ để đánh giá mức độ hoàn thành nhiệm vụ của cấp uỷ cấp trên trực tiếp và cấp uỷ viên, cán bộ được phân công phụ trách.
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 13-NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng - an ninh vùng đồng bằng sông Cửu Long đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045: Quán triệt sâu sắc, tạo sự thống nhất cao trong nhận thức ở tất cả các cấp, các ngành về vai trò, vị trí và tầm quan trọng của vùng và liên kết vùng. Liên kết vùng phải trở thành quan điểm chỉ đạo, chiến lược dẫn dắt sự phát triển toàn vùng và từng địa phương trong vùng. Hoàn thành và triển khai Quy hoạch tỉnh thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050 phù hợp với Quy hoạch vùng đồng bằng sông Cửu Long bảo đảm tính liên kết, đồng bộ, thống nhất, hiệu quả và bền vững, tạo cơ sở để chuyển đổi mô hình phát triển từ chiều rộng sang chiều sâu, từ phân tán, nhỏ lẻ sang tập trung thông qua phát triển các chuỗi sản xuất, cụm ngành, hành lang kinh tế và chuỗi đô thị. Ưu tiên đầu tư và nâng cấp mạng lưới giao thông đồng bộ, cả đường bộ, đường thủy nội địa và đường hàng hải; kết nối các loại hình giao thông; kết nối và rút ngắn khoảng cách/thời gian đi lại giữa tỉnh với các địa phương trong vùng đồng bằng sông Cửu Long, TP. Hồ Chí Minh và kết nối các huyện, thành phố trên địa bàn tỉnh; kết nối các đường tỉnh, đường vào các khu, cụm công nghiệp với tuyến quốc lộ, tuyến cao tốc qua địa bàn, tạo thành mạng lưới giao thông thông suốt, hiệu quả; phối hợp với các bộ, ngành đầu tư các công trình giao thông trọng điểm; nâng cấp một số tuyến đường tỉnh, đường huyện đạt chuẩn; kêu gọi đầu tư cảng sông, cảng biển, cảng biển nước sâu, các cảng trung chuyển hàng hóa...
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 06-NQ/TW của Bộ Chính trị về quy hoạch, xây dựng và phát triển bền vững đô thị Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến 2045: Nâng cao chất lượng quy hoạch, bảo đảm việc lập, thẩm định, phê duyệt đồng bộ các quy hoạch đô thị, quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội đô thị và cụ thể hóa trong quy hoạch phân khu, quy hoạch chi tiết và DA đầu tư, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất được phê duyệt: Xây dựng hệ thống đô thị của tỉnh Bến Tre giai đoạn đến năm 2030 phát triển theo 2 hướng chính: Tây Bắc - Đông Nam và Tây Nam - Đông Bắc. Trong đó hướng Tây Bắc - Đông Nam, hình thành 3 trục đô thị phát triển hướng biển, bao gồm: Trục đô thị động lực Bến Tre - Ba Tri; Trục đô thị Châu Thành - Bình Đại; Trục đô thị Chợ Lách - Mỏ Cày - Thạnh Phú. Ngoài 3 trục dọc hướng biển, hệ thống đô thị còn có các trục kết nối ngang (Tây Nam - Đông Bắc), gồm: Trục đô thị phát triển liên vùng dọc Quốc lộ 60; trục đô thị kinh tế biển; đường đê biển ngăn mặn; đường động lực ven biển,...
+ Đối với dự thảo Chương trình thực hiện NQ số 12-NQ/TW ngày 16-3-2022 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh xây dựng lực lượng Công an nhân dân thật sự trong sạch, vững mạnh, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới: Bảo đảm sự lãnh đạo của cấp ủy, thống nhất quản lý Nhà nước của chính quyền, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ủy Công an Trung ương, Bộ Công an, của Đảng ủy, Giám đốc Công an tỉnh đối với lực lượng công an từ tỉnh đến cơ sở. Hàng năm, các cấp ủy đảng, chính quyền ban hành NQ, chỉ thị lãnh đạo, chỉ đạo lực lượng công an thực hiện có hiệu quả nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, xây dựng lực lượng công an trong sạch, vững mạnh. Tiếp tục hoàn thiện tổ chức bộ máy của Công an tỉnh theo quy định của ngành; rà soát, đề xuất điều chỉnh, hoàn thiện chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và cơ chế hoạt động của các đơn vị cấp phòng, cấp đội và tương đương sát với thực tiễn yêu cầu, nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, phù hợp với chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tiếp tục xây dựng Công an xã, thị trấn chính quy toàn diện về tổ chức, cán bộ; cơ chế lãnh đạo, chỉ huy, phân công, phân cấp; cơ sở vật chất, hậu cần, trang bị, phương tiện,…đủ sức giải quyết các vấn đề an ninh, trật tự ngay từ đầu và tại cơ sở. Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác nắm, phân tích, đánh giá, dự báo sát, đúng tình hình, kịp thời tham mưu cấp ủy, chính quyền các chủ trương, đường lối, giải pháp phù hợp, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội, bảo vệ cuộc sống bình yên cho Nhân dân.
3- Những nội dung khác theo chương trình hội nghị
- Theo chương trình của Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 10, trong buổi sáng 30-9-2022, BTV Tỉnh ủy tổ chức Hội nghị BCH Đảng bộ tỉnh thảo luận và giới thiệu nhân sự quy hoạch BCH Đảng bộ tỉnh, BTV Tỉnh ủy và chức danh diện Trung ương quản lý nhiệm kỳ 2025 - 2030, 2026 - 2031 (bước 4). Đề nghị các đồng chí phát huy dân chủ, trí tuệ tập thể, thực sự công tâm, khách quan, thực hiện tốt nguyên tắc tập trung, dân chủ và các nguyên tắc lãnh đạo của Đảng nhằm giới thiệu các đồng chí tiêu biểu về phẩm chất chính trị, đạo đức, năng lực công tác để quy hoạch vào BCH Đảng bộ tỉnh, BTV Tỉnh ủy.
- Theo chương trình, hội nghị lần này tiến hành kiểm tra chấp hành đối với 6 đồng chí trong Tỉnh ủy và sẽ được thực hiện trong buổi sáng 30-9-2022. Đề nghị các đồng chí được kiểm tra chấp hành nghiêm túc nội dung thông báo của BTV Tỉnh ủy, nêu được các mặt ưu điểm, khuyết điểm, nguyên nhân và hướng khắc phục. Tôi đề nghị các đồng chí trong Tỉnh ủy nghiên cứu, tích cực đóng góp ý kiến, thể hiện tinh thần xây dựng, thẳng thắn chỉ ra được những mặt tích cực, hạn chế, khuyết điểm để người được kiểm tra có dịp soi rọi lại bản thân và có kế hoạch thực hiện phù hợp. Đồng thời, Tỉnh ủy có dịp để nhìn lại công việc trong lãnh đạo công tác cán bộ, nắm rõ hơn điểm mạnh, điểm yếu của từng đồng chí, từ đó nâng cao chất lượng, hiệu quả công việc.
Thời gian từ nay đến cuối năm không còn nhiều, nhưng khối lượng công việc còn rất lớn, yêu cầu nhiệm vụ công việc rất cao, đòi hỏi phải có sự tập trung cao độ, nỗ lực lớn, quyết tâm cao, hành động quyết liệt, cộng đồng trách nhiệm, và kế hoạch hóa trách nhiệm rõ rang, thực hiện các giải pháp đồng bộ và mạnh mẽ hơn nữa để thực hiện đạt và vượt các chỉ tiêu NQ đã đề ra. Sau Hội nghị Tỉnh ủy, tôi đề nghị các cấp, các ngành tiến hành ngay việc rà soát các chỉ tiêu, nhiệm vụ được giao, nhiệm vụ theo chức năng, đẩy mạnh thực hiện các giải pháp cụ thể, sát thực tiễn, nhằm đạt các chỉ tiêu NQ đã đề ra, chuẩn bị thực hiện việc đánh giá, tổng kết năm 2022, làm cơ sở để xây dựng NQ cấp ủy các cấp năm 2023 và sơ kết giữa nhiệm kỳ vào năm 2023.