Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội (LĐ-TB&XH) đang lấy ý kiến dự thảo Nghị định quy định mức lương tối thiểu vùng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động.
Doanh nghiệp đang trả cao hơn mức quy định
Bộ LĐ-TB&XH cho biết, theo quy định tại Điều 91 của Bộ luật lao động thì mức lương tối thiểu vùng được điều chỉnh dựa vào nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ; điều kiện kinh tế - xã hội và mức tiền lương trên thị trường lao động. Căn cứ quy định của Bộ luật lao động, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2014 quy định mức lương tối thiểu vùng áp dụng đối với người lao động làm việc ở doanh nghiệp, hợp tác xã, tổ hợp tác, trang trại, hộ gia đình, cá nhân và các cơ quan, tổ chức có thuê mướn lao động áp dụng từ ngày 01-01-2015 bao gồm 4 mức (mức 3,1 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng I; mức 2,75 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng II; mức 2,4 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng III và mức 2,15 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng IV).
Đáng mừng là theo số liệu điều tra năm 2015 thì mức tiền lương thấp nhất thực trả ở doanh nghiệp đang cao hơn mức lương tối thiểu vùng do Chính phủ quy định năm 2015. Cụ thể, vùng I là 3,5 triệu đồng/tháng, vùng II là 3,39 triệu đồng/tháng, vùng III là 3,14 triệu đồng/tháng và vùng IV là 2,85 triệu đồng/tháng.
Tuy nhiên, Bộ LĐ-TB&XH khẳng định, việc tiếp tục điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng để bảo đảm tiền lương thực tế và từng bước bảo đảm nhu cầu sống tối thiểu của người lao động là cần thiết. Bởi năm 2015, các chỉ tiêu phát triển kinh tế xã hội có sự thay đổi theo hướng tích cực, trong đó mức tăng trưởng kinh tế (GDP) theo Nghị quyết của Quốc hội là 6,2%, thực tế 6 tháng đầu năm tăng 6,28%; Chỉ số giá tiêu dùng theo Nghị quyết của Quốc hội tăng khoảng 5%, thực tế 6 tháng đầu năm tăng 0,55% so với tháng 12-2014; Tỷ lệ thất nghiệp của lao động trong độ tuổi 6 tháng đầu năm 2015 là 2,44%, trong đó khu vực thành thị là 3,35% và khu vực nông thôn là 2%. Mức tiền lương của người lao động trên thị trường lao động vẫn tiếp tục ổn định và tăng trưởng, theo số liệu điều tra cho thấy mức lương bình quân của người lao động trong các loại hình doanh nghiệp 6 tháng đầu năm 2015 đạt 5,37 triệu đồng/người/tháng, tăng 5,3% so với năm 2014 và ước thực hiện cả năm 2014 khoảng 5,5 triệu đồng/người/tháng, tăng 7,8% so với năm 2014. Theo tính toán thì mức lương tối thiểu vùng năm 2015 quy định tại Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2014 của Chính phủ mới chỉ đáp ứng khoảng từ 82%-84% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ tùy theo từng vùng.
Tuy nhiên, Bộ LĐ-TB&XH cũng cho rằng, việc điều chỉnh mức lương tối thiểu vùng năm 2016 cần phải được nghiên cứu, cân đối trên cơ sở đánh giá một cách cụ thể tổng thể các tác động đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp để đưa ra mức điều chỉnh cho phù hợp. Bởi năm 2015 và năm 2016 trong bối cảnh Việt Nam đang tiếp tục hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhất là từ năm 2016 Việt Nam chính thức gia nhập Cộng đồng Kinh tế ASEAN thì có rất nhiều thách thức được đặt ra đối với các doanh nghiệp của Việt Nam do phần lớn doanh nghiệp là doanh nghiệp vừa và nhỏ, công nghệ còn lạc hậu, trình độ và năng suất lao động của người lao động còn thấp hơn so với nhiều nước trong khu vực. Mặt khác, năm 2016 Luật Bảo hiểm xã hội sửa đổi có hiệu lực, trong đó quy định về tiền lương làm căn cứ đóng bảo hiểm xã hội có sự thay đổi (căn cứ đóng bảo hiểm xã hội theo mức lương và phụ cấp lương) cũng có tác động lớn đến chi phí sản xuất của các doanh nghiệp.
Điều chỉnh sẽ đáp ứng được 87% - 90% nhu cầu sống tối thiểu
Trong Dự thảo Nghị định, Bộ LĐ-TB&XH đề xuất lương tối thiểu gồm 4 mức: Mức 3,5 triệu đồng, áp dụng đối với vùng I; mức 3,1 triệu đồng, áp dụng đối với vùng II; mức 2,7 triệu đồng, áp dụng đối với vùng III và mức 2,4 triệu đồng/tháng áp dụng đối với vùng IV.
Mức lương tối thiểu trên (tăng từ 250 nghìn đồng - 400 nghìn đồng so với hiện hành năm 2015, tương ứng với mức tăng theo tỷ lệ phần trăm từ 11,6 - 12,9% tùy theo từng vùng) được tính toán dựa trên cơ sở bù đủ trượt giá sinh hoạt năm 2014 dự kiến khoảng 4% - 5% để bảo đảm tiền lương thực tế cho người lao động; cải thiện theo mức tăng năng suất lao động xã hội khoảng 3% - 3,5% và điều chỉnh tăng thêm ở mức vừa phải (khoảng 4 - 5%) để thực hiện lộ trình điều chỉnh bảo đảm nhu cầu tối thiểu của người lao động. Theo Bộ LĐ-TB&XH, nếu thực hiện theo phương án nêu trên thì đáp ứng được khoảng từ 87%-90% nhu cầu sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ tùy theo từng vùng.
Mặt khác, Bộ LĐ-TB&XH cũng cho rằng, khi thực hiện phương án nêu trên cũng không ảnh hưởng quá lớn đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, do mức tiền lương thấp nhất các doanh nghiệp thực tế đang trả cho người lao động nhìn chung cao hơn mức lương tối thiểu vùng năm 2015 và doanh nghiệp chủ yếu phải tăng thêm phần đóng bảo hiểm xã hội (dự báo chi phí sản xuất tính bình quân chung của các doanh nghiệp tăng khoảng 0,46%, trong đó ngành dệt may tăng khoảng 2,77% và ngành giày da tăng khoảng 2,71% ). Đồng thời, mức lương tối thiểu vùng nêu trên cũng trùng với khuyến nghị của Hội đồng tiền lương quốc gia.
Về địa bàn áp dụng, cơ bản giữ nguyên 4 vùng và danh mục địa bàn ở 4 vùng theo quy định tại Nghị định số 103/2014/NĐ-CP ngày 11 tháng 11 năm 2013 của Chính phủ. Đồng thời có điều chỉnh, bổ sung tên một số địa bàn theo các Nghị quyết của Chính phủ về thành lập thành phố, thị xã trực thuộc tỉnh. Cụ thể, điều chỉnh phân vùng từ vùng IV lên vùng III theo đề nghị của các địa phương, gồm: thị xã Quảng Yên thuộc tỉnh Quảng Ninh; thị xã Giá Rai thuộc tỉnh Bạc Liêu; thị xã Cai Lậy và huyện Chợ Gạo thuộc tỉnh Tiền Giang; thị xã Vĩnh Châu và thị xã Ngã Năm thuộc tỉnh Sóc Trăng.
Dự thảo Nghị định này được lấy ý kiến đến hết ngày 04-11-2015./.