Chị Nguyễn Thị T có nhu cầu tư vấn: Tôi kết hôn đã 3 năm. Vợ chồng tôi không có con. Cha mẹ ruột tôi có cho tôi 4 công đất và 1 căn nhà cấp 4 để ở. Trong ngày cưới, mẹ tôi cho 20 chỉ vàng SJC để làm vốn. Tôi dùng số vàng này mua bán. Nhà và đất tôi cùng chồng đứng tên chung. Vợ chồng tôi sống không hạnh phúc và thường mâu thuẫn nhau, tôi muốn ly hôn với chồng. Xin hỏi, khi ly hôn chồng, tôi có lấy lại được tài sản mà cha mẹ tôi đã cho hay không? Tôi phải làm sao?
Thắc mắc của chị được luật sư Lê Vũ Hồng Huệ (Đoàn Luật sư Bến Tre) tư vấn như sau:
- Điều 33 Luật Hôn nhân và Gia đình (HNGĐ) năm 2014 quy định:
“1. Tài sản chung của vợ chồng gồm tài sản do vợ, chồng tạo ra, thu nhập do lao động, hoạt động sản xuất, kinh doanh, hoa lợi, lợi tức phát sinh từ tài sản riêng và thu nhập hợp pháp khác trong thời kỳ hôn nhân, trừ trường hợp được quy định tại khoản 1 Điều 40 của luật này; tài sản mà vợ chồng được thừa kế chung hoặc được tặng cho chung và tài sản khác mà vợ chồng thỏa thuận là tài sản chung.
Quyền sử dụng đất mà vợ, chồng có được sau khi kết hôn là tài sản chung của vợ chồng, trừ trường hợp vợ hoặc chồng được thừa kế riêng, được tặng cho riêng hoặc có được thông qua giao dịch bằng tài sản riêng.
2. Tài sản chung của vợ chồng thuộc sở hữu chung hợp nhất, được dùng để bảo đảm nhu cầu của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chung của vợ chồng.
3. Trong trường hợp không có căn cứ để chứng minh tài sản mà vợ, chồng đang có tranh chấp là tài sản riêng của mỗi bên thì tài sản đó được coi là tài sản chung”.
Mặt khác, Điều 43 Luật HNGĐ quy định tài sản riêng của vợ chồng như sau: Tài sản riêng của vợ, chồng gồm tài sản mà mỗi người có trước khi kết hôn; tài sản được thừa kế riêng, được tặng cho riêng trong thời kỳ hôn nhân; tài sản được chia riêng cho vợ, chồng theo quy định tại các điều 38, 39 và 40 của luật này; tài sản phục vụ nhu cầu thiết yếu của vợ, chồng và tài sản khác mà theo quy định của pháp luật thuộc sở hữu riêng của vợ, chồng. Khi ly hôn, vợ chồng có quyền phân chia tài sản. Khoản 1 Điều 38 Luật HNGĐ quy định: “Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng có quyền thỏa thuận chia một phần hoặc toàn bộ tài sản chung, trừ trường hợp quy định tại Điều 42 của luật này; nếu không thỏa thuận được thì có quyền yêu cầu tòa án giải quyết”.
Theo lời trình bày của chị và quy định pháp luật nêu trên, chị cần thực hiện như sau:
+ Quyền tự thỏa thuận, tự định đoạt: Trước hết vợ chồng chị có quyền thỏa thuận về vấn đề tài sản và yêu cầu tòa án ghi nhận hoặc có thể hai bên tự thỏa thuận và không yêu cầu tòa án giải quyết.
+ Quyền yêu cầu tòa án giải quyết: Trường hợp vợ chồng chị có tranh chấp và có yêu cầu tòa án giải quyết cụ thể là yêu cầu chia tài sản chung vợ chồng.
Trong quá trình tòa án giải quyết, chị phải có nghĩa vụ chứng minh các phần tài sản mà chị cho rằng là tài sản riêng của chị; chứng minh nguồn gốc tài sản được cha mẹ ruột cho trong thời gian chị kết hôn là cho riêng cá nhân chị. Đồng thời, chị có nghĩa vụ phải cung cấp chứng cứ, ví dụ như các giấy tờ cha mẹ cho con, nguồn gốc tài sản, mốc thời gian anh chị có được tài sản, quá trình tạo lập làm phát sinh tài sản mới, kể cả người làm chứng nếu có… (theo quy định tại Điều 43 Luật HNGĐ).
H.Trâm (thực hiện)