Ngày 17 tháng 1

13/01/2023 - 05:41

“Đội quân tóc dài” Bến Tre đấu tranh trực diện với kẻ thù trong cuộc Đồng khởi 1960. Ảnh: Tư liệu BT

“Đội quân tóc dài” Bến Tre đấu tranh trực diện với kẻ thù trong cuộc Đồng khởi 1960. Ảnh: Tư liệu BT

Lời Bác dặn

Câu chuyện lịch sử đã trôi qua, nhưng hôm nay vẫn còn tươi mới! 77 năm những lớp bụi thời gian không thể che lấp, ta như vẫn thấy Bác đang cùng hành quân ra trận, cùng cả dân tộc “Xây dựng đất nước ta đàng hoàng hơn, to đẹp hơn”.

Ngày ấy, tháng 4-1946, cô Nguyễn Thị Định (cô Ba Định) tròn 26 tuổi đã lái thuyền vượt biển cùng Giáo sư Ca Văn Thỉnh, Bác sĩ Trần Hữu Nghiệp và Đào Công Trường ra gặp Trung ương Đảng và Bác Hồ để báo cáo về tình hình những năm đầu cuộc kháng chiến chống Pháp ở Khu 8, xin vũ khí chi viện cho Khu 8 và Bến Tre. Đoàn đã được Trung ương và Bác Hồ tiếp đón niềm nở. Sau đó, các ông Ca Văn Thỉnh, Trần Hữu Nghiệp và Đào Công Trường được Trung ương giữ lại và tiếp tục vào chiến khu kháng chiến. Riêng cô Nguyễn Thị Định lãnh nhiệm vụ chở một ghe vũ khí về Nam.

Theo các tư liệu được biết, người chiến sĩ công an được phân công đưa vũ khí xuống thuyền chính là nhạc sĩ Văn Cao. Số vũ khí ấy khoảng 12 tấn được đưa về đến Bến Tre và cô Ba Định đã giao cho ông Trần Văn Trà hồi ấy là Khu trưởng Khu 8 tại Rạch Heo, Hầm Lớn, xã An Điền, huyện Thạnh Phú. Những tấn vũ khí ấy đã góp phần quan trọng cho chiến trường lúc bấy giờ, nhưng có loại vũ khí mạnh gấp nghìn lần đó là lời dặn của Bác với cô Ba Định rằng: Bao nhiêu vũ khí ấy chưa đủ, cháu phải về Nam “lấy vũ khí địch mà đánh địch”. Lời Bác dặn giản dị, đơn sơ, nhưng sau 14 năm, cô Ba Định đã thực hiện trọn vẹn sự chỉ đạo của vị cha già dân tộc trong cuộc Đồng khởi ngày 17-1-1960, “lấy súng địch mà đánh địch”.

Có một nghị quyết đi vào lịch sử

Vào giữa tháng 12-1959, được lệnh triệu tập của Khu 8, cô Ba Định được Tỉnh ủy phân công đi dự hội nghị tại Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, vì lúc ấy chỉ có con đường đi công khai là nhanh nhất. Đêm 30 cuối năm 1959, cô Ba về tới sông Cổ Chiên và hôm sau hóa trang thành người mua bán đi chợ đã vượt qua đồn Hương Mỹ và về đến Minh Đức an toàn. Vào các ngày 2 và 3-1-1960, cô Ba đã móc nối tìm lại cán bộ và tổ chức triển khai Nghị quyết số 15 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, xây dựng kế hoạch tuần lễ nổi dậy, lấy 3 xã Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp làm điểm vì lúc này không thể họp Tỉnh ủy kịp. Chỉ trong 15 ngày vừa triển khai nghị quyết, lập kế hoạch nổi dậy, 15 ngày quên ăn, mất ngủ, vì từng ngày, từng phút, từng giờ phải đối đầu với bao gay go, trắc trở.

“Đội quân tóc dài” Bến Tre biểu tình chống Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm.  Ảnh: Tư liệu TTXVN

“Đội quân tóc dài” Bến Tre biểu tình chống Mỹ và bè lũ tay sai Ngô Đình Diệm.  Ảnh: Tư liệu TTXVN

Vào ngày 14-1-1960, đồng chí Đoàn Văn Tranh (tức Bảy Tranh), người được cô Ba giao nhiệm vụ khắc 20 cái mộc (con dấu) Tiểu đoàn 502 để khi nổi dậy treo thông báo có tiểu đoàn chủ lực về nhằm uy hiếp tinh thần địch. Ông đã bị địch bắt. Ngày 15-1-1960, lại thêm chị Tư Lực, giao liên huyện cũng sa vào tay giặc. Làm sao đây? Chỉ còn 2 ngày nữa theo kế hoạch là nổi dậy, Ban lãnh đạo như lửa đốt trong lòng, nếu ông Tranh và cô giao liên không giữ được khí tiết mà khai ra thì xem như kế hoạch bị bại lộ. Nhưng với người con kiên cường, trung dũng ấy dù bị địch tra tấn dã man vẫn luôn giữ được khí tiết của người chiến sĩ cộng sản, không một lời khai báo và đã anh dũng hy sinh trong tù để bảo vệ an toàn cuộc nổi dậy vào ngày 17-1-1960 (ông Bảy Tranh được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân).

Một nghị quyết được triển khai nhanh nhất, hiệu quả nhất đã để lại dấu ấn hào hùng trong lịch sử Đảng bộ và nhân dân Bến Tre.

Phương châm “Hai chân - Ba mũi” và “Đội quân tóc dài”

Cuộc Đồng khởi ở Bến Tre đã xuất hiện và đi đúng với tinh thần Nghị quyết số 15 của Trung ương “kết hợp đấu tranh vũ trang và đấu tranh chính trị”. Sau cuộc nổi dậy 17-1-1960, địch tập trung bao vây phản kích khi chúng phát hiện không có Tiểu đoàn 502 nào về đây mà chỉ là những bộ đội mang súng bập dừa và giả nói tiếng Bắc, chúng tức tối và điên cuồng “dập tắt ung nhọt Kiến Hòa”, đưa hàng chục ngàn quân cùng cơ giới hiện đại bao vây, tấn công vào 3 xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp, càn quét, hãm hiếp phụ nữ và giết trên 20 người dân vô tội. Trước tình hình đó, Ban chỉ đạo kịp thời lập đội vũ trang tổ chức đánh càn quét, vận động bà con “tản cư ngược” vào thị trấn Mỏ Cày giữ thế hợp pháp cho nhân dân, kêu gọi Quận trưởng hãy cứu dân vì là dân của Quận trưởng, vận động binh lính, chống càn quét, chống đàn áp đấu tranh… Cuộc “tản cư ngược” ngày 13-3-1960 có khoảng 5 ngàn người và cuối cùng buộc địch phải rút quân, ta đã hoàn toàn giải phóng 3 xã Định Thủy, Bình Khánh và Phước Hiệp, đánh bại cái gọi là “dập tắt ung nhọt Kiến Hòa”, từ đây đã hình thành phương châm “Hai chân - Ba mũi” và sự ra đời của “Đội quân tóc dài”.

Ngọn lửa nổi dậy từ Định Thủy, Bình Khánh, Phước Hiệp đã nhanh chóng rực cháy trên 3 đảo dừa và lan nhanh ra cả miền Nam.

Bến Tre những điều kỳ diệu

Kể từ ngày 17-1-1960, Đảng bộ và nhân dân Bến Tre cùng cả nước bước vào cuộc kháng chiến chống Mỹ. Ngày 20-12-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam ra đời, thì ngày 28-1-1960, Mặt trận Dân tộc giải phóng miền Nam Việt Nam tỉnh Bến Tre đã ra mắt đồng bào tại ấp Bến Bàu, xã Mỹ Chánh, huyện Ba Tri. 15 năm kháng chiến ta đã vượt qua đau thương, mất mát, nhưng lắm đỗi tự hào với tám chữ vàng “Anh dũng Đồng khởi, thắng Mỹ, diệt ngụy”. Có được niềm vinh dự ấy ta không thể quên những người ngã xuống cho độc lập, tự do. Hãy trân trọng quá khứ bằng những tấm lòng thân thương và triều mến, đừng quên những điều kỳ diệu hôm qua. Những bước chân của mẹ ta, chị ta đi trong lửa đạn, “đi như nước lũ tràn về” của “Đội quân tóc dài”. Quên sao được mẹ Trần Thị Kế chỉ thẳng vào kẻ thù “Chồng con tao ở trong tim tao đây. Chúng bây mổ ra mà kiếm”, bà đã để lại cho nhân loại trên thế gian một câu nói bất hủ. Mẹ Tư Phò, 7 lần giặc phá và đốt sạch nhà, bà vẫn bám trụ để nuôi dưỡng và chăm sóc thương binh. Chị Tuyết, chị Kiều tay không lấy đồn giặc. Chị Út Hạnh, tác giả của “Bức thư máu” không một lời khai báo trước hành động dã man của quân thù, chúng đã đem chị ném vào nhà xác, được đồng đội đưa về vùng giải phóng điều trị, chị và chồng chiến đấu cho đến lúc qua đời, 2 vợ chồng được truy tặng Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân. Chị Bảy Tranh đã 300 lần xuất quân trong các cuộc đấu tranh trực diện với kẻ thù. Chị Năm Đợi ở Giồng Trôm, bình tĩnh hiên ngang khi địch bắt chị dẫn đường càn vào xã, chị đã dẫn địch vào bãi mìn của du kích để gây thương tích cho chúng.

Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đồng khởi Bến Tre, xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam. Ảnh: CTV

Khu di tích Quốc gia đặc biệt Đồng khởi Bến Tre, xã Định Thủy, huyện Mỏ Cày Nam. Ảnh: CTV

Lại kỳ diệu hơn trong kháng chiến có một ca khúc đi vào lòng người của nhạc sĩ Hoàng Việt “Em đi cắt lúa trên ngàn, còn anh chiến đấu xa tràng”, nhưng “chị Năm lựu đạn” ở xã Tân Thanh thì ngược lại, chị lại thoát ly làm cán bộ dân quân huyện, còn anh thì ở nhà nuôi con, chăm sóc gia đình, thỉnh thoảng còn quảy gà, vịt vào thăm chị. Em Huỳnh Lan Khanh, con gái lớn của ông Huỳnh Tấn Phát bị sa vào tay giặc quyết không chịu nhục hình, em đã nhảy từ máy bay trực thăng và anh dũng hy sinh vào ngày 4-1-1968. Em bé Sắc Tân Thanh đã giựt lựu đạn ném thẳng vào quân thù khi chúng đang tra tấn mẹ em và 2 mẹ con bị chúng giết chết tại chỗ. Em Hiếu, 16 tuổi theo bộ đội được trang bị mã tấu, em đã xung phong chém chết tên Trung úy ngụy trong trận càn vào hàng sao xã Bình Khánh sau vài ngày Đồng khởi.

Còn nữa, còn nhiều, rất nhiều tấm gương tiêu biểu khác như anh hùng Đoàn Thị E, Phan Thị Hồng Châu, Dương Thị Lan, Đoàn Thúy Ba, Lê Thị Hồng. Em Giáp Thị Tiến, xã Nhuận Phú Tân là thanh niên xung phong thuộc Tổng đội 2012 đã đứng giữa dòng nước làm chiếc cầu người để đồng đội kịp đưa thương binh về cứu chữa…

Bến Tre rất tự hào đã có nhiều tướng lĩnh Quân đội nhân dân Việt Nam, trong đó có một tướng quân gái, đây là một vị tướng đầu tiên của thế giới - cô Ba Định, đã ấp ủ với sự chỉ dạy của Bác Hồ “Hãy về lấy súng địch mà đánh địch”. 14 năm sau, cô đã chỉ huy cuộc Đồng khởi với phương châm ấy. Trước Đồng khởi, địch đã lấy của ta 2 hầm vũ khí đủ trang bị cho một tiểu đoàn tập trung. Trong 2 ngàn cán bộ được bố trí ở lại thì đến Đồng khởi chỉ còn 162 người, chỉ có 1 khẩu súng carbin và 1 khẩu mi estan, thế mà đến Đồng khởi đợt 2, ta đã có vũ khí trang bị đủ cho một đại đội tập trung. Trong đó có 1 chiến công lớn của một trận đánh không nổ súng, không tốn một phát đạn, đó là anh lính công giáo Nguyễn Văn Chống (tức cảnh sát Chống) đã lấy một lúc 3 đồn và gần 100 súng.

Và càng kỳ diệu hơn năm 1960, Bến Tre có 600 ngàn người thì đã có 70 ngàn tham gia chiến đấu ngoài tỉnh. Kết thúc 2 cuộc kháng chiến và bảo vệ biên giới Tây Nam, giúp Campuchia thoát khỏi nạn diệt chủng, Bến Tre có gần 36 ngàn liệt sĩ (trong đó có 947 người là phụ nữ) và 6.900 Bà mẹ Việt Nam anh hùng. Trong sự hy sinh ấy đã có những tấm gương dũng cảm đáng kính phục. Còn nữa và còn nhiều nữa những tấm gương anh dũng hy sinh cho Tổ quốc, nhưng cũng kỳ diệu thay cô Nguyễn Thị Định, người chỉ huy cuộc Đồng khởi năm xưa lại là tướng quân gái và là Phó tư lệnh Quân giải phóng miền Nam.

Trong Chiến dịch Hồ Chí Minh tấn công vào Sài Gòn lại còn có một người Bến Tre đã ném bom vào Dinh Độc Lập và sân bay Tân Sơn Nhất, góp phần kết thúc Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. đó là Anh hùng Lực lượng vũ trang - Phi công Nguyễn Thành Trung.

Ngày 17-1-1960 là dấu ấn lịch sử, hãy thắp sáng lòng tin và niềm tự hào trong mỗi chúng ta.

Trên lĩnh vực văn hóa có nhiều văn nghệ sĩ như: Diệp Minh Châu, Dương Tử Giang, Ba Vân, Trang Thế Hy, Phạm Khắc, Chim Trắng, Nguyễn Hồ, Võ Trần Nhã, Huy Lam, Lê Huỳnh, Thanh Giang, Hồ Kiểng, Lê Anh Xuân, Xung Phong, Ca Lê Thuần, Võ Đăng Tín, Lan Phong, Quốc Nam, Xuân Hòa… đã có nhiều cống hiến trong cuộc kháng chiến của cả nước nói chung, tỉnh Bến Tre nói riêng và đã để lại cho đời những tác phẩm có giá trị.

Trần Công Ngữ

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN