BDK.VN - Một số doanh nghiệp (DN) chuyên thu mua dừa trái cho hay, chất lượng dừa trái tại huyện Mỏ Cày Nam luôn đạt yêu cầu, nhất là về độ dày cơm; giá dừa phổ biến ở huyện thường được mua cao hơn so với các vùng khác. Riêng xã Định Thủy, giá dừa khô luôn cao nhất so với các xã khác trong huyện. Việc tìm hiểu về các loại đất và nước tại huyện Mỏ Cày Nam giúp người dân hiểu thêm về thổ nhưỡng ở quê mình.
Đất lập liếp trồng dừa tại xã Thành Thới A, huyện Mỏ Cày Nam. Ảnh: Phương Khê
Có 5 nhóm đất
Theo kết quả phân loại đất tỉnh Bến Tre, trên địa bàn huyện Mỏ Cày Nam có 5 nhóm với 8 loại đất. Trong đó, nhóm đất lập liếp (đất nhân tác) chiếm tỷ lệ lớn nhất, với hơn 53,1% diện tích tự nhiên, đất mặn chiếm tỷ lệ nhỏ nhất khoảng 1,5% diện tích tự nhiên và phân bố cục bộ ở một số khu vực đặc trưng.
Nhóm đất lập liếp là nhóm đất điển hình của huyện Mỏ Cày Nam, chiếm tỷ lệ 53,1% diện tích tự nhiên, được hình thành do tác động của con người tạo ra như đào, đắp, cày, bừa, tưới, tiêu, cải tạo phải dày từ 50cm trở lên. Đây là loại đất cải tạo trên nền đất phù sa (Np) với diện tích khoảng 12.267ha; được sử dụng chủ yếu vào mục đích trồng cây lâu năm (cây dừa). Ngoài ra, một số khu vực có vị trí, điều kiện đặc thù gần sông lớn được sử dụng vào mục đích nuôi trồng thủy sản.
Nhóm đất phù sa tại huyện Mỏ Cày Nam được hình thành do sản phẩm bồi đắp của các hệ thống sông ngòi. Là nhóm đất có độ bao phủ rộng thứ 2 sau nhóm đất lập liếp với diện tích khoảng 4.533ha (chiếm 19,6% diện tích đất tự nhiên toàn huyện), bao gồm 3 loại đất: Đất phù sa không được bồi (P) diện tích khoảng 28ha, đất phù sa có tầng loang lổ đỏ vàng (Pf) diện tích khoảng 3.984ha và đất phù sa gley (Pg) diện tích khoảng 520ha, mục đích sử dụng khá đa dạng như trồng cây lâu năm, nuôi trồng thủy sản.
Nhóm đất cát có diện tích khoảng 1.251ha (chiếm 5,40% diện tích đất tự nhiên toàn huyện). Toàn bộ là đất cát giồng (Cz), xuất hiện trên các giồng cát hình thành lâu đời, sâu trong nội địa, địa hình đã bị bào mòn nên thấp dần, đất đã có sự phân hóa mạnh trong phẫu diện; đất có khả năng thoát nước tốt nên có phổ thích nghi rộng, trong điều kiện điều chỉnh phân bón hợp lý, có thể thâm canh hiệu quả các loại rau màu và một số cây ăn trái.
Nhóm đất mặn tại huyện Mỏ Cày Nam có diện tích khoảng 344ha (chiếm 1,5% diện tích đất tự nhiên toàn huyện), thuộc loại đất mặn trung bình và ít. Đây là loại đất chỉ bị nhiễm mặn một số tháng trong mùa khô, nên nồng độ muối trong đất không cao. Hiện nay, diện tích đất mặn trên địa bàn đang được sử dụng vào mục đích trồng cây lâu năm và nuôi trồng thủy sản. Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế mang lại từ loại hình canh tác cây lâu năm chưa cao nên người dân có xu hướng chuyển đổi mục đích sử dụng đất sang nuôi trồng thủy sản tại các khu vực gần sông lớn.
Nhóm đất phèn tại huyện Mỏ Cày Nam được hình thành do sản phẩm bồi tụ phù sa với vật liệu sinh phèn (xác sinh vật chứa lưu huỳnh: Pyrite) phát triển mạnh ở môi trường đầm mặn khó thoát nước. Trên địa bàn huyện chỉ có đất phèn hoạt động (Sj) diện tích khoảng 1.361ha (chiếm 5,9% diện tích đất tự nhiên toàn huyện), bao gồm 2 loại đất: Đất phèn hoạt động nông (Sj1) diện tích khoảng 641ha và đất phèn hoạt động sâu (Sj2) diện tích khoảng 720ha. Đa số diện tích đất phèn của huyện được người dân sử dụng trồng cây lâu năm (trồng dừa).
Nước ngầm tầng sâu nhiễm mặn hoàn toàn
Nguồn nước mặt trên địa bàn huyện Mỏ Cày Nam được cung cấp bởi hệ thống sông, kênh rạch như sông Hàm Luông, sông Cổ Chiên, sông Thom, sông cầu Mương Điều, rạch Mỏ Cày, rạch An Bình…. Trong đó, có 2 sông lớn nhất là sông Hàm Luông và sông Cổ Chiên.
Hệ thống sông, rạch đóng vai trò quan trọng trong việc cung cấp nước ngọt để sản xuất nông nghiệp tại huyện; do ảnh hưởng của chế độ thủy văn trong vùng nên lượng nước mặt phân bổ không đồng đều về lưu lượng cũng như chất lượng nước giữa các mùa trong năm (mùa kiệt, mùa lũ). Nước ngầm gồm có: nước giồng cát, nước ngầm tầng nông và nước ngầm tầng sâu, theo kết quả khảo sát thăm dò địa chất thủy văn cho thấy: nước giồng cát thường phân bố ở các giồng cát có độ cao từ 2,5 - 5m, bề dày tầng nước từ 3 - 7m, có nơi đến 10m; nguồn cung cấp của tầng này chủ yếu là nước mưa, do đó động thái của nó thay đổi theo mùa; nhìn chung, về mặt lý hóa, nước giồng cát có thể tạm đáp ứng yêu cầu sinh hoạt ở nông thôn trong hoàn cảnh hiện nay, về mặt vi sinh còn nhiều vấn đề cần phải xử lý.
Nước dưới đất tầng nông có trữ lượng thấp, kết quả phân tích cho thấy nguồn nước bị nhiễm mặn và có xu hướng tăng cao trong mùa khô, tuy nhiên về mặt vi sinh tương đối sạch, phèn thấp có thể sử dụng cho sinh hoạt. Nước dưới đất tầng sâu: theo các tài liệu hiện có, nguồn nước này trên địa bàn huyện bị nhiễm mặn hoàn toàn.
Huyện Mỏ Cày Nam nằm về phía Nam của tỉnh Bến Tre, là 1 trong 4 huyện thuộc dãy đất Cù Lao Minh. Huyện có diện tích tự nhiên là 23.095,25ha, chiếm 9,64% diện tích tự nhiên toàn tỉnh. Dân số 144.306 người, mật độ dân số bình quân là 625 người/km2. Kinh tế chủ yếu của huyện là nông nghiệp với 2 lĩnh vực chính là kinh tế vườn và chăn nuôi. Mỏ Cày Nam có 16 đơn vị hành chính cấp xã trực thuộc, bao gồm 15 xã (111 ấp) và 1 thị trấn (1 ấp, 7 khu phố).