 |
Nhà máy nước ở xã Bình Thành (Giồng Trôm). |
Vừa qua, đoàn đánh giá thường niên giữa các cơ quan Chính phủ và nhà tài trợ (JAR) gồm đại diện Văn phòng thường trực Chương trình, Bộ Y tế, Bộ Giáo dục và Đào tạo, cố vấn kỹ thuật cao cấp, các tư vấn quốc tế đã có chuyến khảo sát và làm việc tại Bến Tre về Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn (NS&VSMTNT).
Trong năm 2011, toàn tỉnh xây dựng 3 công trình nhà máy nước mới và năm 2012 đang chuẩn bị thi công 3 công trình khác. Trong năm cũng đã có thêm 22.500 người dân nông thôn được tiếp cận với nước hợp vệ sinh và 21.900 người dân nông thôn tiếp cận nước đạt chuẩn 02 của Bộ Y tế. Có 6.450 hộ dân nông thôn xây dựng nhà tiêu hợp vệ sinh, trong đó có 2.624 hộ xây dựng bằng nguồn vốn hỗ trợ từ Chương trình. 100% trường học có công trình cấp nước và nhà vệ sinh. Trong năm 2011 có 27 công trình cấp nước tập trung được xây dựng trong khuôn khổ Chương trình mục tiêu quốc gia. Tất cả các công trình đều hoạt động tốt, bền vững do có mô hình quản lý phù hợp. Năng lực của đội ngũ cán bộ quản lý ngày càng nâng lên. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2012 đã có 78% dân nông thôn sử dụng nước hợp vệ sinh, trong đó có 34% sử dụng nước sạch đạt chuẩn 02 của Bộ Y tế, 31% hộ gia đình có nhà tiêu vệ sinh. 100% trường học, 98,8% trạm y tế có nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh, 100% UBND các xã, 42% chợ nông thôn có nước sạch và nhà tiêu hợp vệ sinh, 42% hộ gia đình chăn nuôi có chuồng trại hợp vệ sinh. Năm 2012 có 3 công trình cấp nước tập trung được xây dựng, đang chuẩn bị đầu tư nâng cấp và mở rộng một số công trình mới. Như vậy, đến cuối năm 2012 có thêm khoảng 24.000 người tiếp cận với nước sinh hoạt hợp vệ sinh, 23.700 người dân tiếp cận với nước sạch đạt tiêu chuẩn 02 của Bộ Y tế, khoảng 14.800 nhà tiêu hợp vệ sinh, trong đó có 700 nhà tiêu được hỗ trợ bằng nguồn vốn Chương trình.
Đồng chí Nguyễn Văn Ngân - Giám đốc Trung tâm NS&VSMTNT khẳng định, Chương trình NS&VSMTNT được Bến Tre triển khai thực hiện khá tốt. Các công trình khi triển khai đều được công khai đến chính quyền địa phương và người dân từ khâu lập kế hoạch, khảo sát, lập dự án đến khởi công và nghiệm thu công trình. Các địa phương thành lập Ban Giám sát cộng đồng và tuyên truyền để người dân sử dụng nước sạch. Công tác kiểm tra, giám sát, báo cáo tiến độ thường xuyên, kịp thời. Đặc biệt, đã xác định được giải pháp trong công nghệ cấp nước và vệ sinh phù hợp với điều kiện từng địa phương nhằm thay thế dần loại hình cấp nước có hiệu quả hơn. Tỷ lệ hộ dân sử dụng nước hợp vệ sinh đạt tới 76%, trong đó có 32% sử dụng nước sạch đạt qui chuẩn của Bộ Y tế. Tuy nhiên, vào các tháng mùa khô, ảnh hưởng nước mặn từ biển Đông xâm nhập sâu vào đất liền làm nguồn nước mặt bị nhiễm trên 1/3 diện tích toàn tỉnh với thời gian dài, ảnh hưởng nghiêm trọng đến đời sống người dân nông thôn, nhất là nguồn nước sinh hoạt hàng ngày. Nguồn nước ngầm toàn tỉnh đều bị nhiễm mặn không đạt tiêu chuẩn đưa vào sử dụng. Việc cấp nước tại khu vực hộ dân sống phân tán còn gặp nhiều khó khăn.
Đối với những công việc cần tập trung thực hiện trong thời gian tới, đoàn đề xuất Bến Tre, quan tâm hơn đến công tác truyền thông để nâng cao nhận thức người dân nông thôn về sử dụng nước hợp vệ sinh, bảo dưỡng nhà máy, môi trường. Tỉnh cần quyết liệt hơn trong huy động các nguồn lực thực hiện đạt kế hoạch 2012-2015.