Sau đó, tôi có đến chơi nhiều
lần gặp ông Tư Chu và nghe ông hay nhắc đến những vị chỉ huy quân sự nổi tiếng,
dũng cảm, mưu lược trên chiến trường… Lúc nào trong câu chuyện của ông đều có
hình bóng ông Sáu Khâm. Ông và Sáu Khâm vốn là hai người bạn, cùng học Trường
Lục Quân Việt Nam lúc đang ở Trung Quốc và lần sau hai ông cùng ra Bắc học ở
Học viện Chính trị cao cấp của Quân đội. Cả hai vị là những đại tá quân đội nổi
tiếng. Sáu Khâm được biết đến với những trận đánh oai hùng ở chiến trường miền
Đông, chỉ huy Trung đoàn 2 và Sư đoàn 9 đều trở thành 2 lần đơn vị anh hùng.
Còn ông Tư Chu vang danh với những trận đánh hiểm trong lòng địch. Về sau, ông
Tư Chu bị bệnh nan y, nói rất khó khăn. Nhưng dường như có điều gì thôi thúc dữ
dội, ông lấy một tập giấy, trong đó ông đề nghị tuyên dương anh hùng những
chiến sĩ biệt động của ông trao cho tôi. Nhìn thấy trong danh sách hầu hết các
cán bộ và chiến sĩ biệt động, còn ông thì không, tôi hỏi: “Sao không có tên
anh?”.
Ông Tư Chu nhìn xa xôi, đôi mắt
chớp liên tục. Bên ngoài căn nhà của ông trời đang mưa, sấm chớp ì đoàng. Cơn
giông buổi trưa thật lạ, dữ dội rồi ngừng cũng nhanh. Bên tách trà nóng, giọng
ông bỗng khó nghe. Nhưng tôi thấu hiểu ông đang quan tâm lo cho cán bộ, chiến
sĩ dưới quyền, còn ông… Đó là phẩm chất của một bậc “đại phu”. Vốn rất cẩn
thận, lúc sắp đi xa, ông đưa cho tôi một xấp tài liệu, trong đó ông phân tích
những trận đánh của Trung đoàn 2 do Sáu Khâm chỉ huy và vì sao anh ấy vẫn âm
thầm và lặng lẽ. Vì sao Sáu Khâm rất vui khi còn trẻ bỗng trở nên sâu thẳm, như
có điều gì đó rất buồn. Thì ra sự đời, có nhiều điều hợp lẽ mà ta thì không bao
giờ nhận ra! Người “thường thường bậc trung” nhưng khéo léo, biết cách vượt qua
nhiều rào cản ngoạn mục để trở thành “kẻ cả”, với những huấn lệnh cao siêu, giả
tạo.
Ông Tư Chu cho tôi đọc rồi lấy
lại, nhưng bằng tấm lòng ngưỡng mộ, tôi nhớ những sự kiện quan trọng liên quan
đến cuộc đời của Sáu Khâm. Con người của chiến trận, một quân nhân với phong
cách giản dị, khiêm nhường, lối xử thế chân thành, nhân hậu. Tôi bỗng hiểu đây
là một con người với biết bao vinh quang và cay đắng của một người lính, một vị
chỉ huy quân sự với những thử thách trong những bước ngoặt của cuộc đời. Quả
thật, đây là một bậc “đại trí, đại dũng” mà không phải ai cũng nhìn thấy.
Tôi sực nhớ lần đến nhà cố Nghệ
sĩ nhân dân Phạm Khắc để lấy tư liệu viết bài
“Chuyện về những tờ giấy màu hồng”. Trong cuộc trò chuyện, anh Khắc kể cho
tôi nghe chiến dịch Bình Giã, anh vừa là người quay phim, vừa là chiến sĩ xung
kích, vừa đạo diễn cho phim trận diệt gọn Chi đoàn thiết giáp số 3 gồm 14 chiếc
M113 để xác tại trận, Tiểu đoàn bảo an tiểu khu Phước Tuy đi cùng, 107 tên Mỹ -
ngụy chết, trong số đó có 9 sĩ quan Mỹ. Hồi đó, Phạm Khắc vác chiếc máy quay
phim cọc cạch, mỗi lần quay phải lên dây cót, anh được phân công xuống Tiểu
đoàn 1 rồi xuống Đại đội Tạ Quang Tỷ. Điều đặc biệt sau khi trao đổi với Chính
ủy Trung đoàn Năm Phòng, Trung đoàn trưởng Sáu Khâm trực tiếp dẫn Phạm Khắc
xuống giao cho Đại đội trưởng Tạ Quang Tỷ, ông nói với Tạ Quang Tỷ: “Phải bảo
vệ nghệ sĩ Phạm Khắc, giúp đỡ tối đa để anh ấy hoàn thành nhiệm vụ”.
Lời của người chỉ huy nổi tiếng
làm Phạm Khắc xúc động. Cách xử sự sâu sát và quyết liệt của Sáu Khâm đã biến
cái khó thành cái dễ và làm cho mọi cán bộ, chiến sĩ thán phục. Ông Tư Chu đã
có câu nói về Sáu Khâm:
“Người chiến sĩ và cả đơn vị
trong chiến đấu hy sinh không tiếc xương máu chỉ vì người chỉ huy mà họ tin
tưởng tuyệt đối”.
Phạm Khắc nhanh chóng hòa nhập
với đơn vị và ra ngay vị trí phục kích. Trong khi chờ đợi đoàn xe bọc thép của
địch trở về, Phạm Khắc dù ở tuyến trước, tuyến xuất phát xung phong nhưng anh
vẫn muốn ở phía trước nữa, ở phía giáp địch, chĩa ống kính về phía sau, quay
lúc quân ta tấn công, anh đem ý định đó trao đổi với Tạ Quang Tỷ:
“Ở phía trước, ngay gò mối
(cách nơi Phạm Khắc và Tạ Quang Tỷ chừng 150 mét) tôi sẽ lên đó, chĩa ống kính
về phía quân ta, tuyệt lắm! Khí thế lúc xuất phát xung phong không có gì
bằng!”.
Trước đề xuất táo bạo của Phạm
Khắc, Tạ Quang Tỷ thấy có lý, nhưng nhớ lời Sáu Khâm, anh không dám tự tiện,
vội cho liên lạc chạy về vị trí chỉ huy của Sáu Khâm xin ý kiến. Ngay lập tức
Sáu Khâm có mặt, anh gật đầu rồi dặn Tạ Quang Tỷ: “Hỏa lực bắn tập trung, trừ
khu vực gò mối”.
Phạm Khắc nói với tôi: “Ở mặt
trận, nơi nào nóng bỏng là có Sáu Khâm. Anh có cái nhìn của một người biết
trước mọi thời cơ của trận đánh, tiết kiệm từng giọt máu của chiến sĩ và quyết
đoán một cách tài tình để cho trận đánh đạt hiệu quả cao nhất. Sáu Khâm là vị
chỉ huy mà bọn Mỹ - ngụy nghe đến tên là rúng động tinh thần, có một cái gì đó,
anh như một vị oai linh làm cho kẻ thù khiếp sợ”.
Nhìn tôi với ánh mắt và thái độ
nghiêm túc, Phạm Khắc tiếp:
“Tên tuổi của anh Sáu đã trở
thành niềm tin của cán bộ và chiến sĩ Sư đoàn 9, sư đoàn chủ lực đầu tiên của
quân giải phóng miền Nam...”.
Trung đoàn 2 rồi Sư đoàn 9 do
ông làm Tư lệnh, đã từng chạm trán với những sư đoàn khét tiếng của Mỹ như: “Sư
đoàn bộ binh số 1- Anh cả đỏ”, “Lữ đoàn kỵ binh không vận 173 - Sứ giả nhà
trời”, “Sư đoàn bộ binh số 25 - Tia chớp nhiệt đới”… Ông đã từng chỉ huy Trung
đoàn 2 diệt gọn Tiểu đoàn Cọp đen 32 nổi tiếng của quân ngụy ở ấp Đường Long,
xã Thanh Truyền, huyện Bến Cát. Trận cầu Cần Đâm lần thứ nhất diệt gọn một tiểu
đoàn địch. Trận Đồng Xoài, với chiến công hiển hách, Trung đoàn 2 do ông chỉ
huy đánh rất giỏi, được tặng danh hiệu Trung đoàn Đồng Xoài. Sáu Khâm đánh giặc
rất khôn và lăn xả, nhiều lần bị thương. Không những đánh giỏi ở rừng, núi, sư
đoàn Sáu Khâm còn rất gan dạ khi đánh vào thành phố… được nhân dân giúp sức,
dẫn đường, sư đoàn đã vào đến Vĩnh Lộc, Bình Chánh, Tân Bình, Trường đua Phú
Thọ, Sư Vạn Hạnh, đánh đến cổng Phi Long, Sân bay Tân Sơn Nhất. Sáu Khâm đã
từng giữ những tờ giấy viết vội: “Các anh bộ đội tới, có gạo, thịt kho, bánh
tét, cứ ăn để có sức đánh giặc”. Sáu Khâm từng nhắc đến những cô gái dẫn đường
vào thành phố, họ nói với ông: “Địch đang ở ngoài ngã tư, ngã ba nào đó, để các
em dẫn đi tránh ra phía sau nó rồi sẽ đánh” và không biết bao nhiêu chiến công
gắn liền với nhân dân. Sáu Khâm tiếc từng mạng sống của chiến sĩ, tinh thần và
tác phong của Sáu Khâm luôn như vậy trong bất kể tình huống nào.
Ông Tư Chu luôn nói với tôi
rằng: Sáu Khâm quê ở Mỏ Cày, Bến Tre, nơi nổi tiếng đánh giặc giỏi. Ông là con
ông Tạ Văn Hòe, cán bộ tiền khởi nghĩa đã từng nuôi giấu ông Dương Quang Đông
sau khi vượt ngục Tạ Lài, là em của ông Tạ Văn Tràng và bà Nguyễn Thị Nhàn, mẹ
Việt Nam anh hùng. Sáu Khâm có máu đặc công, ông bí mật bò vào tận công sự của
địch rồi mới bày ra cách đánh. Với lối tư duy khoa học và ý chí đánh giặc cực
kỳ sắc bén, biến khó thành dễ, Sáu Khâm có cách sống giản dị, không hề lãng
phí, tác phong gần gũi với mọi người, không hề quan cách, phân biệt cán bộ hay
chiến sĩ. Chính vì ông yêu thương chiến sĩ nên được chiến sĩ hết lòng thương
yêu. Chuyện rằng, có một chiến sĩ chiêu hồi, địch sai anh ta về giết Sáu Khâm.
Đêm đó, Sáu Khâm và anh ta cùng ngủ một nhà với nhau. Anh ta đã nói cho Sáu
Khâm biết về âm mưu của địch. Phần anh ta không thể giết Sáu Khâm vì “rất
thương Sáu Khâm”.
Tư Chu nói với tôi nhiều lần,
lần gần nhất ông nằm viện, nói phều phào, rất khó nghe, phải có người thân dịch
lại. Ông nói Sáu Khâm là bậc đàn anh, nhiều vị cấp tướng đang giữ cương vị cao
hiện nay đều là cấp dưới của ông, nhiều người đã trở thành anh hùng. Ông Tư Chu
một nhân vật huyền thoại cũng vừa được tuyên dương Anh hùng trên giường bệnh.
Tôi viết bài này khi được tin
anh Sáu Khâm, người con của Mỏ Cày đã được tuyên dương Anh hùng Lực lượng vũ
trang nhân dân. Em gái ông, bà Tạ Thị Chung cũng trở thành Anh hùng Lao động…
Tôi rất tin, ông Tư Chu và Sáu Khâm, Nghệ sĩ
nhân dân Phạm Khắc chắc là gặp nhau trong dịp Tết Nguyên đán con Dê 2015 này.