Bản án phúc thẩm có hiệu lực gần 5 năm, sao chưa được thi hành?

03/10/2011 - 07:21

Tranh chấp hợp đồng mua bán nhà giữa bà N và vợ chồng bà T xảy ra từ năm 2004. Tòa án nhân dân (TAND) hai cấp sơ thẩm và phúc thẩm đã xét xử, đến nay, bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật gần 5 năm nhưng vẫn chưa được thi hành.

Năm 2003, bà N có mua căn nhà số 561B6, quốc lộ 60 (nay là đại lộ Đồng Khởi), khu phố 7, phường Phú Khương, thị xã Bến Tre (nay là TP.Bến Tre) của bà H với giá 62 triệu đồng. Việc mua bán chỉ làm giấy tay. Nhà này, trước đây bà H mua lại của bà S cũng thực hiện bằng giấy tay. Sau đó, bà N bán căn nhà này lại cho bà T với giá 82 triệu đồng. Hai bên thỏa thuận, khi bà T được cấp giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ đỏ) xong (từ bà S trực tiếp cho bà T) thì bà T sẽ vay tiền ngân hàng để trả nợ cho bà N, bà T còn mượn của bà N 20 triệu đồng. Thế nhưng, khi có được sổ đỏ, bà T không giữ lời hứa. Bà N đòi tiền, bà T hứa sẽ hoàn trả vào ngày 29-7-2004 nhưng vẫn không trả. Bà N đòi tiền nhiều lần, bà T nhiều lần cam kết sẽ trả tiền, trong đó có cam kết ngày 10-8-2004 (được UBND phường Phú Khương xác nhận). Bà N làm đơn khởi kiện vợ chồng bà T. Hòa giải tại phường không thành, vụ việc được chuyển đến TAND thị xã Bến Tre (nay là TAND TP.Bến Tre) xét xử sơ thẩm.

Ngày 10-10-2006, TAND thị xã đưa vụ án ra xét xử. Tại tòa, vợ chồng bà T cho rằng: Vào năm 2003 vợ chồng bà có mua của bà S căn nhà nêu trên với giá 82 triệu đồng, việc mua bán có giấy tờ đầy đủ và vợ chồng bà T đã được cấp sổ đỏ ngày 3-2-2004. Sau đó, vợ chồng bà bán lại nhà này cho bà N với giá 82 triệu đồng, việc mua bán có làm giấy tay do bà N giữ. Do bà N không trả tiền theo hợp đồng nên vợ chồng bà không làm giấy sang tên cho bà N; còn các biên nhận nhận nợ ngày 25-2-2004, ngày 16-5-2004 và giấy bán nhà vào ngày 9-8-2004 (có đủ vợ chồng và các con bà T cùng ký tên) là do bà N nhờ bà T viết dùm để giải quyết chuyện gia đình. Mặt khác, bà T thừa nhận có mượn của bà N số tiền 20 triệu đồng, không nhớ rõ thời gian mượn và có làm biên nhận giao cho bà N giữ. Theo bà T, đây là tiền hụi nhưng bà đã trả xong. Vợ chồng bà T đều khẳng định, ông bà không còn nợ bà N và cũng không đồng ý bán nhà cho bà N.

Căn cứ vào biên bản hòa giải, lời khai của các đương sự, các biên nhận nhận tiền của bị đơn T, bản cam kết trả tiền của bị đơn T cùng các chứng cứ khác, tòa cấp sơ thẩm nhận định: việc mua bán giữa bà N và bà H, bà S chỉ thỏa thuận bằng giấy tay, không tuân thủ theo quy định của pháp luật về hợp đồng mua bán nhà nên không thể công nhận và không thể giao nhà cho bà N được, mà buộc bà T phải trả số tiền 82 triệu đồng cùng với lãi suất quá hạn do Ngân hàng Nhà nước quy định. Tòa đã tuyên buộc vợ chồng bà T phải trả cho bà N số tiền 133,51 triệu đồng, gồm tiền nợ mua nhà (82 triệu đồng), tiền mượn (20 triệu đồng) và tiền lãi quá hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước.

Vợ chồng bà T kháng cáo toàn bộ nội dung Bản án dân sự sơ thẩm số 04/2006 ngày 10-10-2006 của TAND thị xã Bến Tre. Ngày 27-12-2006, TAND tỉnh Bến Tre xét xử phúc thẩm vụ án. Tại Bản án dân sự phúc thẩm số 96/2007, TAND tỉnh Bến Tre đã bác nội dung kháng cáo của vợ chồng bà T, tuyên giữ nguyên bản án của tòa cấp sơ thẩm, buộc vợ chồng bà T phải trả cho bà N số tiền 133,51 triệu đồng. Bản án phúc thẩm có hiệu lực pháp luật kể từ ngày tuyên án.

Sau khi nhận được bản án phúc thẩm, bà N làm đơn gởi đến cơ quan Thi hành án dân sự thị xã Bến Tre (này là Chi cục Thi hành án dân sự TP.Bến Tre) yêu cầu được thi hành án, nhưng vụ việc vẫn “dậm chân tại chỗ”. Vì sao bản án đã có hiệu lực pháp luật gần 5 năm vẫn không được thi hành?

PV.BĐ

Chia sẻ bài viết

BÌNH LUẬN